You can edit almost every page by Creating an account. Otherwise, see the FAQ.

Bạch cừ, Ninh Khang

Từ EverybodyWiki Bios & Wiki

Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Unsubst”. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Unsubst”.

Bạch Cừ (白渠) là một làng thuộc Ninh Khang, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.

Vị trí[sửa]

Làng Bạch Cừ nằm ở hữu ngạn sông Đáy, phía đông nam của Ninh Khang, có vị trí tiếp giáp:

  • Phía đông và nam giáp sông Đáy.
  • Phía tây giáp làng Phú Gia.
  • Phía bắc giáp làng La Phù.

Hành chính[sửa]

Làng Bạch Cừ được chia làm 4 xóm: Phấn Thượng, Phấn Trung, Tiến Thịnh, Đông Phú.

Kinh tế[sửa]

Làng Bạch Cừ có trung tâm buôn bán chính là chợ Bạch Cừ thuộc chợ vùng quê trên địa bàn huyện Hoa Lư nằm trong danh sách các chợ loại 1, 2, 3 ở Ninh Bình từ năm 2008.

Lịch sử[sửa]

Bạch (白) là "trắng", Cừ (渠) là "kênh, ngòi". Cho nên Bạch Cừ (白渠) có nghĩa là "ngòi trắng". Làng Bạch Cừ xưa kia là đất phù sa đọng lại bồi đắp nên, nằm ngoài trấn Thanh Hoa (tức là thành phố Ninh Bình hiện nay), thuộc huyện Gia Khánh, tổng La Mai. Làng Bạch Cừ cách đường quốc lộ 1A về phía tây bằng một làng khác là Phú Gia, gần sông Đáy. Thời kỳ Hậu Lê, Trịnh Nguyễn phân tranh, phù Lê diệt Mạc kéo dài trên 2 Thế kỷ. Sau khi vua Lê Thái Tổ thống nhất sơn hà, kêu gọi toàn dân khai khẩn hoang điền, di dân lập ấp. Tổ tiên đã đi từ vùng đất Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên dọc theo sông Đáy đến gần núi Non Nước, nhìn thấy thủy thế thuận lợi, đất cát phì nhiêu mầu mỡ, trồng lúa và làm nghề đánh bắt cá rất tốt, lại được nguồn nước thủy triều lên xuống đều đặn, sản xuất được dồi dào, nên các Cụ khi đó đã dừng chèo con thuyền tại đây, mà dựng nên làng Bạch Cừ trù phú, giàu đẹp cho đến ngày nay. Tại di tích đền thờ Triệu Quang Phục và đình làng Bạch Cừ (thuộc làng Bạch Cừ) có một câu đối được Tiến sĩ họ Lê thời triều Nguyễn ban tặng năm Giáp Thìn (1909) với nội dung liên quan, ca ngợi đến sự thành lập nên làng Bạch Cừ như sau:

"Đáy giang lan dẫn cừ sinh bạch

Thúy lĩnh thần khai thạch tác bình

(Tiến sĩ Lê tiên sinh soạn, Thành Thái Giáp Thìn niên)"

Có nghĩa là:

"Sóng sông Đáy đưa vào kênh nên màu trắng xóa

Thần núi Thúy tạo thành đá làm bức bình phong

(Tiến sĩ Lê tiên sinh soạn, năm Thành Thái Giáp Thìn (1904))"

Đây còn là một nghệ thuật chơi chữ của vị tiến sĩ họ Lê này, ta có thể hiểu vế đối đầu tiên của câu này theo nghĩa “Sóng sông Đáy chảy dẫn dòng (phù sa) tạo nên làng Bạch Cừ”.

Bước đầu có 9 dòng họ, đến nay kế tiếp thêm là 21 dòng họ. Tuy “đồng tính bất đồng tông” (nghĩa là cùng mang một tên họ nhưng tên lót khác nhau, không cùng huyết thống), nhưng vẫn đoàn kết làm ăn, tổ chức có nề nếp, xây dựng nên 8 xóm, 4 che, 6 giáp (hiện giờ là 4 xóm). Trải qua thời kỳ khó khăn lúc mới lập làng ấp, song làng Bạch Cừ làm ăn bắt đầu thịnh vượng, phất lên vào thời Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Cảnh Thịnh.

Không những thế mà vào thời Nguyễn, ngày 27 tháng 4 năm Khải Định thứ 10 (1925), làng Bạch Cừ đã được phong cho 4 chữ vàng được khắc vào biển gỗ sơn son thếp vàng, 4 chữ ấy là Mỹ Tục Khả Gia (美俗可嘉), có nghĩa là "phong tục đẹp, đáng được khen". Hiện nay 4 chữ vàng vẫn còn được treo trang trọng tại nhà 4 mái nơi đình làng, tuy nhiên qua sự tác động của thời gian, lịch sử mà biển này hiện đã không còn nguyên vẹn, mặc dù đã được dạm lại. Làng Bạch Cừ lúc ấy, từ tư gia đến công cộng đều được kiến thiết xây dựng lên nhiều nhất, như trường học, trường dạy nghề, lập kho nghĩa thương và tu tạo lại đền, chùa, miếu mạo, cầu cống,...v..v.

Văn hóa - Lễ hội[sửa]

Làng Bạch Cừ đến nay vẫn thờ Đức Triệu Quang Phục và được suy tôn là “Đức Thánh Triệu”. Hiện ngài được dân làng thờ như là một vị Thành hoàng tại nơi đền Thượng (tại di tích đền thờ Triệu Quang Phục và đình làng Bạch Cừ), ngoài ra dân làng còn thờ một vị Thành hoàng nữa tại nơi đền Hạ thuộc loại Thổ thần, đã đạt được cấp Trung đẳng thần vào niên hiệu Khải Định năm thứ 9 (1924) (được phân theo điển chế thời Nguyễn). Biển gỗ được ban có 4 chữ vàng Mỹ Tục Khả Gia (美俗可嘉) tức là “phong tục đẹp, đáng được khen”, được treo tại nhà 4 mái của đình làng Bạch Cừ hiện nay. Vậy tại sao lại được ban 4 chữ vàng đó, theo như các Cụ truyền nhau lại thì làng Bạch Cừ có 5 tập tục thời bấy giờ, đó là:

  • Thứ nhất,“Thập niên bất đáo trong đình” ta phân tích ra, tạm hiểu là “10 năm không có vụ kiện lên Huyện, mọi người sống chung bằng tình làng nghĩa xóm, sống rất yên vui”.
  • Thứ hai, cưới xin – ma chay – tập tục cải lương theo nếp sống thời xưa, “Mừng chia vui, buồn chia sầu”.
  • Thứ ba, kính già yêu trẻ, 60 tuổi trở lên được cả làng tổ chức tế thọ vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm. Mở hội hát chèo 3 ngày liền, mừng thọ 90 tuổi tặng áo đỏ, trẻ đi học không phải đóng học phí,...v..v.
  • Thứ tư, làng có quỹ nghĩa thương hàng năm cho dân vay lúc giáp hạt tháng 3 – 8, không tham ô.
  • Thứ năm, có trật tự an ninh trong làng lẫn ngoài đồng; đường làng được lát đá; ngã ba có cột đèn, tối có người thắp đèn dầu.

Những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, lễ hội tiêu biểu diễn ra trong năm (tính theo âm lịch) được người dân của làng Bạch Cừ hưởng ứng cũng như tại di tích lịch sử văn hóa đền thờ Triệu Quang Phục và đình làng Bạch Cừ như sau:

  • Ngày mùng 6 tháng Giêng là ngày sinh của đức Triệu Quang Phục, diễn ra trong 1 ngày: Buổi sáng, đại diện của 4 xóm tổ chức tế lễ với các đội tế Nam quan và Nữ quan, sau đó đại diện của làng phát biểu. Buổi tế lễ kết thúc, các xóm rước lễ về nhà văn hóa xóm thụ lộc. Buổi chiều, các gia đình, dòng họ, khách thập phương dâng lễ tại đền thờ.
  • Ngày 14 tháng 8 là ngày kỵ đức Triệu Quang Phục, thời gian lễ hội diễn ra trong 2 ngày: Ngày 13 và 14 tháng 8. Trước đó 1 ngày, nhân dân tổ chức dọn dẹp khuôn viên di tích, trang trí khánh tiết và chuẩn bị các lễ vật. Cụ thể là sáng ngày 13, đại diện cán bộ của làng và Ban quản lý di tích dâng hương tại đền thờ và đình. Sau đó đến đền Độc Bộ, Yên Nhân, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định để tham dự lễ hội. Chiều ngày 13, đoàn đại diện của làng từ đền Độc Bộ về di tích dâng hương và dâng tiến lễ vật. Sáng ngày 14, nhân dân và người cao tuổi của 4 xóm trong làng rước kiệu và tổ chức tế lễ, có đội tế Nam quan và đội tế Nữ quan. Sau đó đại diện của làng và Ban quản lý di tích phát biểu, buổi tế lễ kết thúc, các xóm rước lễ về nhà văn hóa của xóm đó thụ lộc. Chiều ngày 14, các gia đình và khách thập phương dâng lễ tại di tích, xong bên cạnh đó là phần hội làng, có các trò chơi dân gian với sự tham gia nô nức của người dân trong làng tại ngoài sân đình như: Đánh đu, kéo co, chọi gà, đấu vật, cờ người, bắt vịt, bắt lợn,...v..v. Đến tối ngày 14, 4 câu lạc bộ văn nghệ của 4 xóm biểu diễn văn nghệ.
  • Ngày 15 tháng Giêng: Tổ chức mừng thọ người cao tuổi của làng. Ngày 15 tháng 7 là ngày lễ báo ân. Lễ trừ tịch (đêm 30 tết) được diễn ra vào lúc giao thừa nên còn gọi là lễ giao thừa, lúc này mọi người đều đến đây dâng hương cầu tài cầu lộc mong cho một năm mới tốt đẹp hơn.

Như vậy các ngày tế lễ, lễ hội được dân làng Bạch Cừ hưởng ứng hàng năm gồm: Đầu năm 3 ngày tết, mồng 6 tháng Giêng, 14 tháng 8 và những ngày mùng 1, ngày rằm, ngoài ra khi dân chúng ốm đau, muốn cầu lộc hay mất mùa cũng tế lễ ngài mà không cố định là ngày nào. Đến ngày 15 tháng Giêng hàng năm cũng được dân làng tổ chức mừng thọ người cao tuổi của làng tại đình.


This article "Bạch cừ" is from Wikipedia. The list of its authors can be seen in its historical and/or the page Edithistory:Bạch cừ. Articles copied from Draft Namespace on Wikipedia could be seen on the Draft Namespace of Wikipedia and not main one.



Read or create/edit this page in another language[sửa]