You can edit almost every page by Creating an account. Otherwise, see the FAQ.

Thuật (Naruto)

Từ EverybodyWiki Bios & Wiki

Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Message box/configuration' not found.


Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Unsubst”. Trong animemanga Naruto của Kishimoto Masashi, một jutsu ( (Thuật)/ Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Language/name/data' not found.? "chiêu thuật" hay là "kỹ năng") là một cụm từ chỉ đến bất kỳ một chiêu thuật nào ninja sử dụng được nhưng một con người bình thường thì không thể. Thuật thường dựa trên sự điều khiển và phân phối chakra bằng nhiều phương pháp, phổ biến nhất là thủ ấn, còn có tên ingei hay mundra. Ingei/mundra là một phần trong tín ngưỡng của tôn giáo Lão và Phật, và cả những bài tập cổ xưa. Thủ ấn gồm sự kết hợp giữa biểu tượng của mười hai con vật đến từ các chi của Trung Quốc.

Trong phim, khoảng hàng trăm các loại thuật khác nhau đã được tiết lộ, và có cái tên khác nhau tùy theo các phương tiện truyền thông. Anime và manga Naruto tiếng Anh đều sử dụng những cái tên thuật khác nhau, chúng thường xuyên không hợp với nghĩa sát của từ tiếng Nhật. Phim lồng tiếng Anh thường không dịch chữ "jutsu", trong khi đó manga tiếng Anh thì dịch "[tên thuật] Technique" hay "Art of [tên thuật]". Với một số bản phụ đề tiếng Việt và bản lồng tiếng Việt của HTV3, người ta thường dịch "[tên thuật] chi Thuật". Do phần lớn tên thuật được viết bằng Hán tự, nên sẽ được dịch sang tiếng Việt sát nghĩa bằng hệ thống âm, từ Hán Việt.

Tạo dựng và khái niệm[sửa]

Khái niệm của thuật được tạo dựng bởi Kishimoto Masashi nhằm giải thích những khả năng siêu nhân mà ninja thực hiện trong phim.[1] Thuật ngữ chakra được mượn từ khái niệm チャクラ - "chakra" (luân xa) trong Ấn Độ giáo, là sự kết hợp của năng lượng thể chất và tâm linh ẩn sâu trong con người. Kiểu mẫu ninja của Kishimoto trong Naruto nhằm mục đích loại bỏ những khái niệm mơ hồ được định ra trước về các ninja nổi tiếng của manga khác và mang một hình ảnh nguyên bản vào ninja hiện tại trong manga.[1] Việc sử dụng thủ ấn đã thay thế cho các câu thần chú ma thuật, và dựa trên chuyển động của các ninja trong nhiều trò chơi nhập vai.[1] Thủ ấn được dựa trên các nhân vật của Hoàng đạo Trung Quốc, vốn là một truyền thống lâu đời tại Nhật Bản, và Kishimoto sử dụng chúng một cách chi tiết để tô điểm cho truyền thống đó.[2]

Mặc dù khái niệm về chakra được tìm thấy trong thần thoại Ấn Độ, Phật giáo và nhiều hệ tín ngưỡng khác, trong một cuộc phỏng vấn, Kishimoto khẳng định rằng việc sử dụng chakra của anh trong Naruto không hề dựa vào một trong những điều trên.[1] Anh còn khẳng định thêm đó là từ để tạo ra định nghĩa cụ thể cho khả năng sử dụng thuật của ninja trong Naruto, và được so sánh với the Force trong Chiến tranh giữa các vì sao hay điểm phép thuật trong trò chơi nhập vai.[1]

Thông tin cơ bản[sửa]

Nói cơ bản, thuật được chia làm ba nhóm: ảo thuật, nhẫn thuật, và thể thuật. Nhẫn thuật còn có 2 nhóm nhỏ: thuật phong ấnthuật chú ấn, là những thuật để tạo ra ấn với nhiều mục đích khác nhau. Còn có cả tiên thuật sử dụng cả ba loại năng lượng, năng lượng tinh thần và cơ thể của ninja cùng năng lượng tự nhiên, và kết quả là thuật của ninja còn mạnh hơn khi tạo ra nó bằng cách thông thường như Nhẫn thuật. Còn có khả năng huyết kế giới hạn. Đây thực sự thì không phải là thuật, mà là khả năng di truyền chỉ có thể sở hữu bởi một bộ tộc nhất định.

Dựa trên độ khó hay kĩ năng cần thiết để thực hiện thuật, chúng sẽ được xếp hạng khác nhau. Có tổng cộng 6 hạng (từ E đến S), ngoài 2 hạng cho trường hợp ngoại lệ. Thứ hạng thuật không có nghĩa là nó sẽ hiệu quả hơn một thuật hạng thấp hơn, mà chỉ có nghĩa là khó thực hiện hơn. Sự hiệu quả chủ yếu dựa vào kỹ thuật cá nhân. Hai thứ hạng ngoại lệ là "bí thuật"–秘伝|hiden và "cấm thuật"–禁術|kinjutsu. Bí thuật được truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác trong một bộ tộc. Những thuật này không được xếp hạng vì không ai ngoài bộ tộc biết dùng chúng.[3] Thuật dựa trên Huyết kế Giới hạn cũng rơi vào hạng này. Mặt khác, cấm thuật có rơi vào một trong 6 hạng chính, nhưng lại là ngoại lệ vì chúng bị cấm không được học hay thực hiện. Một thuật có thể xếp vào hạng cấm nếu nó gây hại đến người dùng như mở Bát Môn, hay chúng hắc ám và độc ác như của Orochimaru.

• Chú ấn thuật[sửa]

Chú ấn thuật–呪印術: juin jutsu là thuật sử dụng một loại "chú ấn" đặc biệt để khiến ai đó chịu sự điều khiển của người dùng hay khơi dậy tác dụng dị thường trong người bị ảnh hưởng. Chúng có thể dùng để gây đau đớn (gồm cả cái chết nếu sự đau đớn kéo dài lâu) hay kích hoạt nhiều sự biến hình khác nhau cho người bị ảnh hưởng, như của Orochimaru vậy.[3]

• Ảo thuật[sửa]

Ảo thuật–幻術: genjutsu là những thuật sử dụng chakra trong hệ thần kinh của đối thủ để tạo ra ảo giác; về cơ bản được coi là nhẫn thuật cao cấp về trí óc. Những người có khả năng đặc biệt như Tả Luân Nhãn của bộ tộc Uchiha hay những người có trí thông minh cao sẽ dễ dàng thực hiện và chống trả ảo thuật hơn, vì sự cảnh giác là mấu chốt. Kiểu ảo thuật phổ biến nhất là tạo ra ảo ảnh thông thường – khiến cho đối thủ nghe, thấy, ngửi, nếm, và/hay cảm giác những thứ không thực sự ở đó để có thể điều khiển chúng. Nói cách khác, ảo thuật ảnh hưởng đến 5 giác quan, tuy nhiên những ứng dụng khác của ảo thuật còn tồn tại. Những người chịu ảnh hưởng của ảo thuật sẽ bị tê liệt tại chỗ hay mất tỉnh táo, tùy thuộc vào việc họ có khả năng nhận diện và chống lại chúng như thế nào.[4]

Có vài cách để chống ảo thuật. Bởi vì nó sử dụng chính chakra của đối thủ, đối thủ có thể hóa giải ảo thuật bằng cách phá vỡ dòng chảy chakra của chính họ. Việc này gọi là Ảo thuật Giải|幻術解|Genjutsu Kai. Ngoài ra, nếu họ thất bại trong việc giải ảo thuật, sự đau đớn nhức nhối (tuy nhiên nó phải không được tạo ra bởi ảo thuật) có thể khiến họ thoát khỏi nó. Một người khác có thể phá vỡ dòng chảy chakra cho họ bằng cách truyền chakra của chính người đó vào cơ thể họ. Cuối cùng, nếu đồng đội của nạn nhân tấn công kẻ niệm ảo thuật, thuật sẽ bị hóa giải và nạn nhân được giải thoát.

Huyết kế giới hạn[sửa]

Từ trên xuống: Luân Hồi Nhãn, Bạch Nhãn, Tả Luân Nhãn

Huyết kế Giới hạn–血継限界|Kekkai Genkai là những khả năng được di truyền trong một bộ tộc nhất định. Hầu hết bộ tộc đều sáng chế ra loại thuật đặc biệt liên quan đến huyết kế giới hạn của họ và thuật đó không thể được dạy hay sao chép bởi người khác, vì chúng cần đặc điểm di truyền nhất định. Khả năng huyết kế giới hạn mà hoạt động qua đôi mắt gọi là đồng thuật–瞳術|dōjutsu, ví dụ như Bạch Nhãn, Tả Luân Nhãn, và Luân Hồi Nhãn.[4] Huyết kế giới hạn khác, như khả năng về Mộc Độn của Hokage Đệ Nhất và Yamato, Băng thuật của Haku được sáng tạo theo sự kết hợp của hai yếu tố chakra riêng biệt (nước và gió).

• Nhẫn thuật[sửa]

Nhẫn thuật–忍術|ninjutsu là một khái niệm mơ hồ chỉ đến hầu như bất kỳ thuật nào sử dụng chakra và khiến họ có thể làm những việc phi thường. Dạng nhẫn thuật cổ xưa nhất được cho là do người sở hữu Luân Hồi Nhãn đầu tiên là Lục đạo Tiên nhân sáng tạo ra. Không như ảo thuật, tác dụng của nhẫn thuật đều là thực. Nhẫn thuật cần chakra và, hầu như mọi lúc, thủ ấn (mỗi thủ ấn là một con giáp khác nhau trong hoàng đạo Trung Quốc) để thi triển. Đôi tay được theo những vị trí trong một chuỗi nhờ đó hình thành chakra đúng cách để thực hiện thuật. Dù sao chúng cũng không phải là luôn luôn cần thiết và một vài loại thuật đơn giản có vẻ như đã trở thành bản năng thứ hai của các ninja kinh nghiệm khi họ có thể thực hiện chúng bằng ý chí. Hơn nữa, vài thuật có thể được xếp vào loại tố thuật khi chúng sử dụng một yếu tố nhất định: Thổ–土遁|Doton, Lôi–雷遁|Raiton, Hỏa–火遁|Katon, Phong–風遁|Fūton, Thủy–水遁|Suiton. Cụm từ "Nhẫn Pháp" (忍法–Ninpō) thường được thêm vào đầu bất kỳ một thuật nào khác tố thuật.[4]

• Phong ấn thuật[sửa]

Phong ấn thuật–封印術|Fūin jutsu là một thuật để phong ấn một thứ gì đó vào trong một vật thể hay cơ thể sống. Ứng dụng phổ biến nhất của thuật này là phong ấn vũ khí hay vật thể khác vào trong những ống cuộn để mang một số lượng lớn đồ vật theo một cách tiện lợi. Phong ấn thuật cũng được dùng để ngăn cấm sự tiếp cận với một vật thể nào đó, như chakra hay lối vào một tòa nhà.[3] Những ứng dụng khác là cắt đứt mối liên hệ giữa đồng thuật và vĩ thú (không cho người sử dụng đồng thuật quyền kiểm soát vĩ thú), ngăn chặn hoặc quấy nhiễu các dòng chakra 五行封印 (Gogyō Fūin) - (Ngũ Hành Phong Ấn) hoặc nguy hiểm hơn là phong ấn hoàn toàn các vĩ thú thông qua các jinchuuriki 幻龍九封尽 - (Genryū Kyū Fūjin): Huyễn Long Cửu Phong Tận.

Tiên thuật–仙術|senjutsu chỉ đến việc sử dụng chakra được tạo từ năng lượng tinh thần và cơ thể bên trong một Ninja kết hợp với năng lượng tự nhiên. Kết quả là đòn tấn công vật lý và thuật được gia tăng sức mạnh đáng kể. Có vẻ như chúng bắt nguồn từ ba nơi, chỉ có ba nơi đó là được truyền thừa đầy đủ và chính xác nhất, ba nơi đó là: Diệu Mộc Sơn - 妙木山 (Myōbokuzan) của tộc Cóc, Long Địa Động - 龍地洞 (Ryūchidō) của tộc Xà và Thấp Cốt Lâm - 濕骨林 (Shikkotsurin) của tộc Sên. Trong truyện thì Jiraiya (một trong Tam Nhẫn Huyền thoại), Hokage Đệ Tứ Namikaze Minato và Naruto đã sử dụng tiên thuật của tộc Cóc, còn Gamakichi là nhân vật duy nhất thân thuộc với nó. Hokage Đệ Nhất sử dụng Tiên thuật Mộc độn để giao chiến với Uchiha Madara của tộc Uchiha. Còn có Kabuto sử dụng tiên thuật của tộc Xà khi hắn tìm thấy thông tin về Long Địa Động sau khi Orochimaru bị phong ấn.

Để luyện tập cách tích chakra tiên thuật, người dùng phải mất một thời gian khá dài để tĩnh tâm, điều khiển và hấp thụ dòng chảy chakra tiên thuật một cách tập trung, liên tục và cân đối. Nếu tích quá nhiều sẽ trở thành giống như cóc và hóa đá. Bình thường, Naruto sẽ sử dụng các ảnh phân thân của mình tích lũy năng lượng, để khi xong sẽ giải thuật và nhanh chóng được bổ sung chakra tiên thuật, phục vụ cho mục đích chiến đấu lâu dài.

• Thể thuật[sửa]

Thể thuật–体術|taijutsu chỉ đến bất kỳ thuật nào có võ thuật hay hoàn thiện khả năng tự nhiên của con người. Nói cách khác, thể thuật được thực hiện bằng cách sử dụng trực tiếp thể lực của người dùng, chứ không chuyển thể lực sang chakra để thực hiện nhẫn thuật hay ảo thuật, nghĩa là thể thuật có thể được thực hiện nhanh hơn nhẫn thuật và ảo thuật (dù vậy không phải lúc nào cũng mạnh bằng). Trong vài trường hợp, chakra được dùng để tiếp sức cho thuật, điển hình là trong thế võ Nhu quyền của bộ tộc Hyuga khi người dùng phóng một lượng nhỏ chakra vào cơ thể người đó để tấn công hệ chakra hay điểm chakra, và với Tsunade cùng Sakura họ lại kết hợp chakra vào đòn tấn công để gia tăng sức mạnh. Nói tóm lược, hầu hết người sử dụng thể thuật ít khi dùng đến chakra, như Rock Lee và Might Guy.[4]

5 thuộc tính cơ bản[sửa]

Là 5 thuộc tính tự nhiên nhất khi thi triển nhẫn thuật, và cũng chỗ đó có Ngũ Đại Cường Quốc Ninja làm đại diện: Hỏa, Thủy, Thổ, Phong, Lôi.

Thủy độn[sửa]

Hệ Thủy (水遁 (Thủy Độn)/ Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Language/name/data' not found. Suiton?) là một trong những nguyên tố Biến Đổi Tự Nhiên thường được dùng bởi ninja đến từ làng Sương mù, Hokage đệ nhị Senju Tobirama, Momochi Zabuza, Hoshigaki Kisame,... Hatake Kakashi trước đây đã từng chiến đấu với ninja từ làng Sương mù này dùng sharingan sao chép cũng có thể dùng vài thuật thủy độn. Hầu hết các thuật thủy độn cần một nguồn nước có sẵn để thực hiện, như một cái hồ hay vũng nước. Dù sao, Hoshigaki KisameHokage Đệ Nhị có thể tạo ra nước từ cơ thể của mình để dùng cho thuật (trường hợp này chỉ những bậc thầy về Thủy Thuật mới có thể làm được).

Một trong thuật những ngoại lệ là Thủy Độn: Thủy Trận Bích (水遁:水陣壁 Suiton: Suijinheki?), để người dùng có thể phun bức tường bảo vệ bằng nước từ miệng dù vậy họ cũng có thể dùng nguồn nước khác nếu có thể.[5]

Trên việc vận động cơ bản nước từ cơ thể để tấn công hay phòng thủ, người dùng có thể làm rắn chắc nước thành một bản sao của chính mình để tham gia trận chiến.[6] Phân thân phải ở trong tầm của người dùng để có thể hoạt động, khiến đối thủ dễ dàng bỏ chạy. Ninja làng Sương mù có thể giam hãm đối thủ với Thủy Lao Chi Thuật – (水牢の術: Suirō no Jutsu) trong một quả cầu nước hầu như không thể thoát ra. Vì người dùng phải giữ bàn tay lên quả cầu để thuật này hiệu nghiệm, thủy phân thân có thể được dùng để tấn công kẻ thù khác trong khi người ban đầu duy trì thuật.[6]

Thủy độn là một trong những nguyên tố kết hợp ra các Huyết Kế Giới Hạn như: Băng độn, Phỉ độn, Lam độn.

Thổ độn[sửa]

Hệ Thổ (土遁 (Thổ độn)/ Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Language/name/data' not found. Doton?) nằm trong nguyên tố Biến Đổi Tự Nhiên, là những thuật cho phép người dùng điều khiển đất nhằm phòng thủ hoặc tấn công thường được các ninja của Làng Đá sử dụng. Ngoài ra, Thổ Thuật rất hữu dụng để hỗ trợ từ đó, người dùng có thể độn thổ hoặc đi xuyên qua đá. Thổ Thuật thường có ấn Tỵ khi thực hiện, Thổ thuật có khả năng thay đổi độ cứng của đất, như cứng như kim loại hoặc dẻo như đất sét.

Người sử dụng có thể tạo ra đất hơn là sử dụng nguồn đất có sẵn, điển hình là Hokage Đệ Tam. Các Ninja của làng Đá rất thông thạo các thuật hệ Thổ như hai cựu Tsuchikage Onoki và Muu... Theo tự nhiên, Thổ mạnh hơn Thủy nhưng lại yếu hơn Lôi.

Hệ Thổ cũng là một trong những nguyên tố kết hợp ra các Huyết Kế Giới Hạn như: Dung độn, Mộc độn và Huyết Kế chọn lọc: Trần độn.

Hoả độn[sửa]

Hệ Hỏa (火遁 (Hỏa Độn)/ Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Language/name/data' not found. Katon?) là thuật cho người dùng điều khiển lửa bằng cách tăng nhiệt độ của chakra, thường là để tấn công tầm trung, tầm xa, phát nổ và gây sát thương lớn. Hỏa độn thường bắt đầu với ấn Dần. Thuật cơ bản của Hỏa độn là Hào Hỏa Cầu Chi Thuật - Gougakyuu no Jutsu, rất nhiều ninja có thể sử dụng được thuật này như Kakashi, Itachi, Jiraiya,... đặc biệt là tộc Uchiha của Làng Lá.

Một số ninja có thể sáng tạo thêm hình dáng hoặc đặc tính của thuật để tạo ra các biến thể như Katon: Hosenka no Jutsu (Phụng Tiên Hoa) của Sasuke hoặc Jiraiya đã kết hợp với dầu hỏa của Gamabunta tạo ra Katon: Gamayu Endan no Jutsu (Hà Mô Du Viêm Đạn) trong trận đánh với Orochimaru.

Hỏa độn là một trong những nguyên tố kết hợp ra các Huyết Kế Giới Hạn như: Dung độn, Chước độn, và Huyết kế chọn lọc: Trần độn.

Lôi Độn[sửa]

Hệ Lôi (雷遁 (Lôi Độn)/ Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Language/name/data' not found. Raiton?) nằm trong những nguyên tố Biến Đổi Tự Nhiên, những thuật cho phép người dùng tạo ra điện bằng cách tăng tần số rung động của Chakra, có thể đâm thủng vật rắn và rất nhanh. Điện làm cho mục tiêu bị tê liệt, không thể cử động để cuối cùng bị dính đòn chí mạng.

Điện có thể truyền qua vũ khí như các hệ Chakra khác thông qua dòng chảy Chakra làm vũ khí trở nên sắc bén, khi bị đánh trúng sẽ bị tê liệt. Lôi thuật được các Ninja Làng Mây sử dụng nhiều, theo tự nhiên Lôi Thuật mạnh hơn Thổ Thuật nhưng lại yếu hơn Phong Thuật. Lôi cũng có quan hệ với nước vì khi 2 hệ này kết hợp sẽ tạo ra một sức mạnh đáng gờm. Bản thân Kakashi cũng đã sáng tạo ra các chiêu thức dùng Lôi độn như Thiên điểu (Chidori) và Lôi thiết (Raikiri), và sau này Sasuke kế thừa thầy, cũng sáng tạo thêm nhiều chiêu thức Lôi độn khác kết hợp với thanh kiếm Kusanagi của mình như Kỳ lân (Kirin) và Lôi kiếm (Raiken).

Phong Độn[sửa]

Hệ Phong (風遁 (Phong Độn)/ Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Language/name/data' not found. Fuuton?) là một trong những nguyên tố Biến đổi tự nhiên tạo nên những thuật tấn công cho phép người sử dụng tạo ra gió bằng chakra của mình sao cho sắc bén và mỏng nhất có thể được, giống như lưỡi dao hoặc cây kéo điển hình là Dao Chakra của Sarutobi Asuma... hoặc có thể ngăn chặn phi tiêu, vũ khí nhỏ như khi Temari đấu với Ten Ten. Nhân vật chính của bộ truyện, Uzumaki Naruto có thể thêm hệ Phong vào chakra của mình để tạo ra Rasen Shuriken, chiêu thức có thể cắt đứt toàn bộ hệ chakra của đối thủ.

Là nhân tố hiếm nhất trong năm nguyên tố chakra cơ bản mặc dù này lại khá phổ biến ở các ninja Làng Cát. Phong thuật thích hợp cho những đòn tấn công từ tấm ngắn cho tới tầm trung, kết hợp sức mạnh vô cùng lớn và sự chính xác để tạo ra những nhát cắt với sức mạnh lớn. Người dùng thậm chí có thể chuyển chakra tính phong của mình vào thanh kiếm để tăng phạm vi tấn công và cũng như sức mạnh của nhát chém.

Có thể đạt hệ phong được bằng cách học làm thế nào để cắt một chiếc lá ra làm đôi với chakra và sau đó học cách để ngăn chặn dòng chảy của nước.

Theo tự nhiên, Hệ Phong bản thân nó rất mạnh khi chống lại những đòn Lôi thuật, và tương tự lại khá yếu khi chống lại những đòn tấn công của Hỏa thuật. Trong trường hợp kết hợp các thuật, nó làm gia tăng sức mạnh của các thuật Hệ Hoả cũng như làm tăng sức mạnh rung chuyển của Thủy thuật.

Phong khi kết hợp với các nguyên tố khác cũng tạo ra các Huyết kế giới hạn: Băng độn, Chước độn.

* Các công thức dung hợp, tương sinh, tương khắc các độn tự nhiên:[sửa]

Hỏa có thể được cường hóa bởi Phong và Thổ (dạng nhớt)

血継限界 (Kekke Genkai): Huyết Kế Giới Hạn

Hỏa + Thổ = Dung Độn - 鎔遁 (Yōton)

Phong + Thủy = Băng Độn - 氷遁 (Hyōton)

Phong + Lôi = Từ Độn - 磁遁 (Jiton)

Thổ + Thủy = Mộc Độn - 木遁 (Mokuton)

Thổ + Lôi = Bộc Độn - 爆遁 (Bakuton)

Thuỷ + Lôi = Lam Độn - 嵐遁 (Ranton)

Hoả + Thuỷ = Phí Độn - 沸遁 (Futton)

Phong + Hoả = Chước Độn - 灼遁 (Shakuton)

Phong + Thổ = Tinh Độn - 晶遁 (Shōton) (có thể)

血継淘汰 (Kekke Tōta): Huyết Kế Chọn Lọc

Hoả + Thổ + Lôi = Trần Độn - 塵遁 (Jinton)

Lôi có thể được cường hóa bởi Thổ (dạng từ), Thủy và bị Phong khắc chế

Hỏa ĐộnPhong ĐộnLôi ĐộnThổ ĐộnThủy ĐộnHỏa Độn→…

* Một số nguyên tố khác:[sửa]

Tấn Độn - 迅遁 (Jinton) (có thể do cường hóa từ Lôi Độn hoặc Phong Độn)

Cương Độn - 鋼遁 (Kōton) (có thể do cường hóa từ Thổ Độn)

Dương Độn - 陽遁 (Yōton), Âm Độn - 陰遁 (Inton) và Âm-Dương Độn - 陰陽遁 (In'yoton)

Chakra[sửa]

ggg
Biểu đồ đơn giản về "bộ máy cơ học" sản sinh Chakra.

Thể Lực–身体エネルギー|Shintai Enerugī là một dạng năng lượng sống còn được tạo ra bên trong tế bào của cơ thể sống. Kết hợp với Sinh Lực–精神エネルギー|Seishin Enerugī, hay là năng lượng tinh thần và sức mạnh ý chí, nó có thể được dùng cho nhiều mục đích, ví dụ như sản sinh ra sức chịu đựng siêu nhân được dùng trong thể thuật. Nó cũng có thể dùng để tạo ra dạng năng lượng gọi là chakra–チャクラ|chakura, thiết yếu cho việc sử dụng ngay cả thuật đơn giản nhất.[7]

Một khi đã được tạo ra, chakra di chuyển trong phạm vi cơ thể đến bất kỳ một điểm giải phóng (chakra) nào, tận dụng một hệ thống đường di chuyển chứ không như hệ tuần hoàn. Bằng nhiều phương pháp—thủ ấn là phổ biến nhất—nó sau đó có thể thực hiện những việc tưởng chừng không thể dưới quy luật tự nhiên, như đi trên mặt nước hay phun ra lửa. Thế nhưng, ninja phải tích lũy năng lượng tự nhiên liên tục để chiến đấu lâu dài, vì vậy các ninja phải được tập luyện cách duy trì chakra, cách hấp thụ năng lượng tạo ra chakra và tốc độ giải phóng chakra sao cho nhanh, phù hợp, chính xác, tiết kiệm và có hiệu quả cao.

Tập tin:Naruto Chakra Van-dong-tu-nhien.PNG

Sơ đồ quan hệ bù trừ lẫn nhau của các yếu tố. Chiều mũi tên chỉ tính mạnh hơn

Chất lượng của chakra có thể biến đổi tùy theo thứ được gọi là biến đổi thuộc tính–性質変化|seishitsu henka.[8] Có sáu loại biến đổi thuộc tính:[9] Năm loại cơ bản ([8] được biết nhiều với tên "yếu tố"), và vận động tự nhiên Âm Dương.[10] Vẫn chưa rõ về loại sau.

Năm loại biến đổi thuộc tính cơ bản là Thổ, Thủy, Hỏa, Phong, và Lôi.[8] Mỗi một yếu tố lại mạnh hơn yếu tố kế bên, nhưng yếu hơn yếu tố ở trước, theo chiều từ Lôi trở về Thổ. Ví dụ, một đòn tấn công bằng sét rất hiệu nghiệm khi chống lại đòn phòng thủ bằng đất, nhưng dễ dàng bị chống trả bằng gió. Hơn nữa, tố thuật có thể bị chống trả bằng một thuật cùng loại yếu tố, nếu thuật đó có sức mạnh bằng hoặc kém hơn.[11]

Về cơ bản, mọi người đều có một sự thân thuộc về tự nhiên với một trong những yếu tố này. Những người có sự thân thuộc với Thổ sẽ dễ dàng học thuật Thổ Độn–土遁|Doton hơn bất kỳ thuật nào khác. Và tương tự với Thủy (Thủy Độn–水遁|Suiton), Hỏa (Hỏa Độn–火遁|Katon), Phong (Phong Độn–風遁|Fūton), và Lôi (Lôi Độn–雷遁|Raiton).[8] Dù sao, có sự thân thuộc với một trong các yếu tố không có nghĩa là không thể học những tố thuật khác. Hầu hết ninja thượng đẳng đều có thể sử dụng 2 tố thuật, trong khi Hatake Kakashi thậm chí đã sử dụng nhiều hơn vậy.[12]

Ninja với một Huyết kế Giới hạn nhất định có khả năng kết hợp 2 yếu tố với nhau để tạo ra yếu tố mới. Ví dụ như thuật Băng Độn (Hyōton) của Haku, kết hợp Thủy và Phong thành Băng, và thuật Mộc Độn (Mokuton) của Hokage Đệ NhấtYamato, kết hợp Thổ và Thủy thành Mộc.[13] Trong khi một vài ninja không có Huyết kế Giới hạn lại có thể dùng nhiều thuật, họ không thể làm cùng một lúc.

Bát Môn[sửa]

Tập tin:Eight Gataram.jpg
Một biểu đồ cho thấy vị trí của mỗi cổng

Bát Môn–八門|Hachimon là 8 điểm nhất định trên hệ tuần hoàn chakra của một người. Chúng giới hạn dòng chảy chakra trong cơ thể động vật. Chakra xuất phát từ giới hạn cơ thể. Điều này khiến cho cơ thể yếu hơn, nhưng giúp cho cơ thể không bị suy nhược quá sớm. Khi mở những cổng này, người đó có thể vượt qua giới hạn cơ thể của chính họ với điều kiện là cơ thể họ tổn thương nặng nề. Mở cánh cổng cuối cùng sẽ khiến người đó có sức mạnh gấp 10 lần ngũ Kage cộng lại nhưng kết cục của việc mở cánh cổng cuối cùng là năng lượng từ tế bào của người đó trở nên cạn kiệt, dẫn đến cái chết. Tình trạng mà tất cả tám cổng được mở gọi là Bát Môn Độn Giáp Chi Trận–八門遁甲の陣|Hachimon Tonkō no Jin. Rock Lee mở được năm cổng đầu tiên. Might Guy, người đã dạy Rock Lee chiêu thức này, trong trận chiến với Madara đã mở cổng thứ tám và bại liệt chân cả đời. Hatake Kakashi có thể mở ít nhất một cổng, vì có cảnh anh ta đang leo núi đá và kích hoạt Khai môn trong não anh.

Theo sơ đồ bên, thứ tự mở khóa các cổng charka như sau (đi từ 1 đến 8):

  1. Kaimon (開門, "Khai Môn"): Nằm ở não trái, khi mở cổng này sẽ khiến não bộ xóa bỏ giới hạn đối với cơ bắp và giúp cơ bắp có thể đạt đến 100% sức mạnh (bình thường cơ bắp chỉ dùng 20% sức mạnh), cho phép sử dụng Biểu Liên Hoa (Omote Rengei)
  2. Kyūmon (休門, "Hưu Môn"): Nằm ở não phải, mở cổng này làm tăng cường sức đề kháng và tăng cường sinh lực cho cơ thể.
  3. Seimon (生門, "Sinh Môn"): Nằm ở cột sống, tăng cường lưu thông máu huyết (khiến da trở nên đỏ) và giúp người sử dụng có thể thi triển Lý Liên Hoa (Ura Rengei)
  4. Shoumon (傷門, "Thương Môn"): Nằm ở cột sống, giúp tăng cường sức mạnh và tốc độ, có thể gây ra rách cơ.
  5. Tomon (杜門, "Đỗ Môn"): Nằm ở bụng, giúp tăng cường sức mạnh và tốc độ.
  6. Keimon (景門, "Cảnh Môn"): Nằm ở vị trí dạ dày, giúp tăng cường sức mạnh và tốc độ, khi mở Cảnh Môn sẽ khiến cơ thể giải phóng ra năng lượng rất lớn, tạo thành hơi nước cuộn quanh cơ thể. Mở Cảnh Môn cũng giúp người sử dụng có thể thi triển chiêu Triều Khổng Tước.
  7. Kyōmon (驚門, "Kinh Môn"): Nằm ở vị trí dưới dạ dày, giúp tăng cường sức mạnh và tốc độ, giúp người sử dụng có thể thi triển chiêu Trú Hổ (Hirudora). Khi mở Kinh Môn, cơ thể sẽ tiết ra mồ hôi màu xanh và bốc hơi thành sương vì nhiệt độ của cơ thể. Mở cổng này cũng khiến các múi cơ bị xé rách và người sử dụng sẽ cảm thấy vô cùng đau đớn khi bị ai đó chạm vào.
  8. Shimon (死門, "Tử Môn"): Nằm ở tim, khi mở cổng này sẽ khiến cơ thể tiết ra máu, tạo thành luồng sương đỏ bao quanh cơ thể, tim đập với tốc độ tối đa và khiến cơ thể vận dụng tối đa năng lượng trong người. Mở Tử Môn giúp người sử dụng có thể đạt được sức mạnh gấp trăm lần bình thường, mạnh hơn cả năm Kage, tuy nhiên cái giá phải trả là sinh mạng của bản thân. Người sử dụng có thể thi triển những chiêu thức cực mạnh như Tịch Tượng, Dạ Nga. Sau khi mở Tử Môn, cơ thể gần như bị nung nóng từ trong ra ngoài và tan thành tro bụi.

Các thuật thường gặp[sửa]

Có nhiều thuật chỉ được thực hiện một lần trong suốt truyện hay chỉ được sử dụng bởi một nhân vật. Những thuật sau là những thuật thường được sử dụng trong suốt truyện bởi hơn một nhân vật.

Bạch Nhãn[sửa]

Tập tin:Byakugan Neji.jpg
Neji đang dùng Bạch Nhãn

Bạch Nhãn–白眼|Byakugan là một đồng thuật–瞳術|dōjutsu tự động bộc phát ở các thành viên trong bộ tộc Hyuga.[14] Những người sở hữu Bạch Nhãn trở nên khác biệt nhờ đôi mắt trắng và không có đồng tử. Khi Bạch Nhãn được kích hoạt, con ngươi có vẻ như xuất hiện và những mạch máu ở gần thái dương phồng lên. Những người sở hữu Bạch Nhãn cũng có thể sử dụng Nhu quyền.[15]

Một người có Bạch Nhãn sở hữu tầm nhìn rộng 360 độ, ngoại trừ một điểm mù nhỏ ở phía sau cổ ở trên đốt sống ngực thứ 3.[16] Người dùng Bạch Nhãn có thể phát hiện ra mọi thứ ở xung quanh họ trong một bán kính nhỏ. Kĩ năng của người dùng Bạch Nhãn càng cao, bán kính này càng lớn, điều đó khiến họ trở thành chuyên gia cận chiến. Bạch Nhãn còn khiến người dùng có khả năng nhìn xuyên qua hầu như mọi vật chất từ một khoảng cách rất xa. Ở đây cũng có một chút góc độ về mặt kính thiên văn, vì người dùng Bạch Nhãn có thể tập trung vào một vật thể từ bất kỳ điểm nào ở một khoảng cách xa.[3]

Việc bảo vệ Bạch Nhãn trở nên rất quan trọng với bộ tộc Hyuga, và đã dẫn đến việc tạo ra thứ bậc gia đình. Thành viên của Phân Gia bị khắc vào một loại chú ấn lên trán khi còn nhỏ. Mỗi khi một thành viên Phân Gia chết, chú ấn sẽ biến mất và phong ấn khả năng Bạch Nhãn nên kẻ thù không thể khám phá ra bí mật của nó.

IGN xếp hạng Bạch Nhãn ở vị trí thứ 3 trong Mười Thuật Đứng Đầu Naruto, nói rằng ứng dụng của loại thuật này vào cuộc sống hằng ngày là vô tận.[17]

Thiên Điểu[sửa]

Tập tin:Chidori.jpg
Sasuke đang dùng Thiên Điểu

Thiên Điểu (千鳥,Chidori) là một ví dụ của vận động tự nhiên được sáng tạo bởi Hatake Kakashi.[18] Thiên Điểu yêu cầu người dùng phải dẫn một lượng chakra sét rất lớn về bàn tay, nhiều đến nỗi chakra vô hình thông thường trở nên hiện hình trước mắt thường. Vì sự tập trung điện lực cao độ mà chiêu này tạo ra, nó phát ra âm thanh giống như của hàng ngàn con chim (dẫn đến cái tên). Khi đòn tấn công được hình thành người dùng lao đến đối thủ và đâm thẳng cánh tay vào một phần cơ thể, như trái tim. Thuật này dù gây sát thương nghiêm trọng đến đối thủ, người dùng chiêu thức này phải đạt đến tốc độ cực hạn của con người, khiến họ dễ bị sơ hở.[19] Tuy nhiên nếu người dùng có Tả Luân Nhãn, họ có thể nhìn chi tiết hơn khi di chuyển, và họ có thể phản công.[20] Thuật Thiên Điểu là một thuật dùng kỹ năng biến đổi thuộc tính.

Thiên Điểu cần sự điều khiển rất cao để có thể tận dụng triệt để; người sáng tạo ra thuật, Kakashi, đã đạt đến ngưỡng kĩ năng cao nhất của thuật. Vì vậy, phiên bản của Kakashi có cái tên Lôi Thiết–雷切|Raikiri, một dạng cấp cao hơn của thuật mà với nó anh đã từng cắt qua một tia sét.[21] Vì lượng chakra cần thiết rất cao, những người có thể thực hiện nó bị giới hạn số lần sử dụng một ngày rất ít. Uchiha Sasuke đã sử dụng nguyên tắc cơ bản đằng sau Thiên Điểu để tạo ra nhiều đòn tấn công sét và sát thương cao.

Kĩ thuật này được Hatake Kakashi.[18] truyền dạy cho Uchiha Sasuke và trở thành một trong những kĩ thuật mạnh nhất của cậu và được phát triển lên tầm cao sau khi trải qua nhiều trận chiến. Mặc dù hệ Phong khắc chế hệ Lôi nhưng kĩ năng của Uchiha Sasuke đã nâng Thiên Điểu lên một tầm cao mới đến mức có thể Rasengan (Loa toàn hoàn) của Naruto.

Thiên Điểu đứng hạng 2 trong bài viết Mười Thuật Đứng Đầu Naruto của IGN.[17]

Nhu quyền[sửa]

Nhu Quyền–柔拳|Jūken hướng tới việc gây tổn thương hệ tuần hoàn chakra của đối thủ, nhờ đó ngăn chặn đối phương sử dụng chakra, bằng cách khiến cho khu vực bị tấn công của đối thủ bị trệch hướng dòng chảy chakra và ngoài ra còn làm tổn thương nội tạng đối thủ. Thậm chí chỉ một cái gõ nhẹ của loại quyền này cũng có thể gây tổn thương nặng, dẫn đến cái tên. Bởi vì không có cách nào để rèn luyện cho nội tạng con người mạnh hơn, loại quyền này có thể gây tổn thương nặng dù cơ thể đối thủ mạnh mẽ đến đâu. Do hệ tuần hoàn chakra nằm trong cơ thể, cần có Bạch Nhãn để có thể sử dụng hiệu quả thuật này và vì thế nó chỉ thuộc về bộ tộc Hyuga.

Để nhanh chóng ngăn chặn khả năng sử dụng chakra của đối thủ, người dùng Nhu quyền có thể thực hiện Bát Quái Lục Thập Tứ Chưởng–八卦六十四掌|Hakke Rokujūyon Shō để tấn công những điểm chakra riêng biệt trên cơ thể đối thủ bằng một loạt các đòn chưởng nhanh hơn và mạnh hơn.[22] Một khi đã hoàn tất thuật này sẽ triệt tiêu hiệu quả khả năng sử dụng chakra của đối thủ khiến chúng di chuyển khó khăn hơn. Cũng một thao tác để ngăn chặn đối thủ dùng chakra có thể được dùng làm khiên; với Bát Quái Chưởng Hồi Thiên–八卦掌回天|Hakkeshō Kaiten, người dùng giải phóng một lượng lớn chakra từ các điểm chakra khi bị tấn công. Lượng chakra được giải phóng sẽ đỡ bất kỳ đòn tấn công vật lý nào, và người dùng chỉ cần xoay người liên tục, vừa để tạo một tấm khiên chakra xung quanh họ vừa để hất tung bất kỳ kẻ tấn công nào.[22] Vì sự hiệu nghiệm và sức mạnh của thuật, chỉ có những thành viên tông gia của bộ tộc Hyuga được dạy chiêu thức, dù vậy những người dùng Nhu quyền xuất chúng có thể sao chép chiêu thuật mà không cần ai dạy. Cả Hyuga NejiHyuga Hinata sử dụng những nguyên tắc cơ bản đằng sau thuật này để tạo ra những thuật của riêng họ.

Mộc Độn[sửa]

Mộc Độn–木遁|Mokuton thuật là những thuật kết hợp chakra đất và nước để tạo ra cây cối, những loài cây đặc biệt với nhiều kích cỡ và hình dáng. Mộc tố thuật có thể tạo ra ở bất kỳ đâu, ngay cả cơ thể người dùng, vì chakra của người dùng được chuyển đổi hoàn toàn thành nguồn sự sống. Hokage Đệ Nhất, người đầu tiên được biết là sử dụng thuật, đã dùng nó để cho mọc những khu rừng mà làm tiền đề cho sự thành lập nên Làng Lá, và đó là lý do chính cho việc ngài được phong làm Hokage. Sau khi Đệ Nhất qua đời, Yamato đã được Orochimaru tiêm DNA của Đệ Nhất vào cơ thể anh với tham vọng tái tạo lại chiêu thuật. Yamato đã sống sót sau cuộc thí nghiệm và là người sống duy nhất được biết là có thể dùng Mộc độn.

Vì Yamato hiện là người duy nhất dùng Mộc độn, nhiều thuật có liên quan chỉ được một mình anh dùng. Anh thường xuyên tạo phân thân và khiên chắn bằng gỗ. Còn với những mục đích phức tạp hơn, Yamato có thể tạo ra hoàn toàn một ngôi nhà với những đặc điểm cơ bản như cổng, cửa sổ.

Chú ấn của Orochimaru[sửa]

Thiên Chú ấn của Sasuke

Chú ấn của Orochimaru được tạo ra ban đầu qua cuộc thí nghiệm với Juugo. Cơ thể của Jugo một cách tự nhiên sản sinh ra một loại enzym có thể biến người dùng sang nhiều loại hình hài khác nhau, tăng nguồn chakra của họ lên nhanh chóng. Bằng cách chiết xuất loại enzym này từ cơ thể Jugo và tinh chế lại nó, Orochimaru có thể áp dụng nó với bất kỳ đệ tử nào hắn muốn.

Một khi chú ấn được áp dụng, người đó chỉ có 10% cơ hội sống sót và họ bất tỉnh trong khi cơ thể họ nhận hay đẩy chú ấn ra. Nếu sống sót, người đó sẽ có thể sử dụng chú ấn cấp một. Khi được kích hoạt, hoa văn chú ấn riêng biệt sẽ phát tán khắp cơ thể từ điểm bắt đầu; cơ thể càng bị che phủ, người dùng càng bị hút về sức mạnh của chú ấn. Loại ấn này tự động hút chakra từ cơ thể người dùng và khiến họ có thể trạng mạnh mẽ, dù vậy hậu quả là khiến họ đuối sức khi ấn bị hóa giải. Tâm trí họ từ từ bị ăn mòn khi ấn đang kích hoạt, và chú ấn tiến đến cấp hai.

Quá trình tiến đến cấp hai của chú ấn là một quá trình dài, đến nỗi Orochimaru đã tạo ra một loại thuốc đặc biệt để tăng tốc quá trình. Khi đã đạt đến cấp hai, người dùng hoàn thành thuật với chú ấn bao bọc khắp cơ thể. Sau đó là cơ thể người dùng biến đổi một cách dị thường, với đặc điểm chung duy nhất là đôi mắt vàng với màng cứng màu đen. Những người sử dụng ấn điêu luyện có thể thực hiện việc biến hình không hoàn chỉnh, khi đó có thể đạt đến cấp hai mà không cần biến hình hoàn toàn. Sức mạnh của chú ấn có thể đồng bộ hóa với cơ thể bình thường của người dùng, gia tăng sức mạnh tự nhiên của người đó.

Hình Nhân Thuật[sửa]

Hình Nhân Thuật hay Khối Lũy Thuật–傀儡の術|Kugutsu no Jutsu đã được sáng tạo để chuyển một loại hình giải trí sang một phương pháp chiến đấu. Thuật này sử dụng những sợi chakra kéo dài từ ngón tay người dùng để điều khiển con rối. Những người có thể sử dụng chiêu này hiệu quả rất hiếm, nhưng khi đã điêu luyện người dùng có thể trốn sau một nơi an toàn và dùng con rối để tấn công. Những người điều khiển rối thành thạo có thể điều khiển nhiều con rối cùng một lúc, Chiyo có thể sử dụng mỗi một trong 10 ngón tay để điều khiển một con rối. Sợi dây chakra cũng cho phép người điều khiển rối điều khiển người hay vật thể khác.[3]

Nghệ thuật rối có nhiều ứng dụng từ người này sang người khác, vì rối có thể được trang bị nhiều vũ khí và công cụ khác nhau để trận đánh dễ dàng hơn. Người điều khiển có thể kết hợp nhiều con rối với nhau để tăng hiệu quả; lấy ví dụ, Kankuro có thể sử dụng một con rối để bắt giữ kẻ địch trong khi con thứ 2 tấn công bằng vũ khí. Tuy vậy, những con rối bình thường chỉ dùng được đòn tấn công không phụ thuộc chakra, vì những vật vô tri vô giác không thể sử dụng chúng. Sasori đã bù đắp sự thiếu sót này bằng cách chuyển đổi cơ thể của một người sống thành một con rối. Bởi vì chúng từng là con người, những "con rối" này có thể thực hiện thuật, khiến chúng có lợi thế hơn so với con khác.

Rasengan (Loa toàn hoàn)[sửa]

Tập tin:Rasengan.jpg
Naruto đang dùng Rasengan

Loa Toàn Hoàn–螺旋丸|Rasengan là một thuật sáng tạo bởi Namikaze Minato (trong anime thì người đầu tiên tính trong lịch sử Nhẫn tông theo bản gốc là Otsutsuki Ashura tạo ra chỉ là Phong độn) sau 2 năm, nhưng phải mất thêm 1 năm để thành thục, sau đó được Jiraiya phát triển thêm. Nó không cần một thủ ấn nào, thay vào đó hoàn toàn dựa vào khả năng điều khiển chakra của người dùng.[23] Rasengan nghiền nát bất cứ thư gì chạm phải, gây sát thương lớn cũng như nội thương đáng kể. Nếu cần, hiệu lực của đòn tấn công có thể được giảm để không gây nguy hiểm cho mục tiêu. Khác với Thiên Điểu của Sasuke, Rasengan là thuật dùng kỹ năng biến đổi hình thái. Sát thương và độ xoáy cao hơn với Chidori - 千鳥 (Thiên Điểu)Raikiri - 雷切 (Lôi Thiết) do Hatake Kakashi.

Trình độ điều khiển chakra cần thiết phải rất cao, vì vậy việc truyền đạt thuật được phân ra giai đoạn trong đó người dùng điều khiển chakra trong một quả bóng (kể cả người có Tã Luân Nhãn cũng khó mà sao chép được). Minato dạy nhẫn thuật này cho Hatake Kakashi và sau đó là chính người thầy của mình, Jiraiya, và Jiraiya cũng tự tay mình dạy cho Naruto thuật này, và Naruto đã dạy thuật này cho Konohamaru. Trong khi hầu hết những người điêu luyện thuật này có thể dùng nó với một tay, Naruto phải sử dụng 3 hoặc nhiều tay hơn với sự trợ giúp của một ảnh phân thân – một tay để cung cấp chakra và những tay kia để xoay tròn và định hình nó.[24] Mặc dù cậu ta vẫn tiếp tục cố gắng khiến Rasengan dễ hình thành hơn, Naruto đã có thể tạo nó bằng một tay khi cậu ở trong áo choàng Cửu Vĩ Yêu Hồ. Khi ở trạng thái Tiên Nhân, cậu cũng có thể tạo ra Rasengan thông thường, và thậm chí là 2 Loa toàn hoàn ở 2 tay với trợ giúp bởi 2 ảnh phân thân.

Naruto cũng đã thành công trong việc nạp thuộc tính chakra Phong của mình vào Rasengan (điều mà ngay cả Hokage Đệ Tứ Namikaze Minato khi còn sống vẫn chưa làm được) để tạo ra Phong Độn: Loa Toàn Thủ Lý Kiếm (Fuuton: Rasen Shuriken|風遁・螺旋手裏劍). Rasen-shuriken có hình dáng như một cái phi tiêu khổng lồ với trung tâm là quả cầu Rasengan, ném đi được đồng thời nó có một sức công phá và sát thương khủng khiếp, khi chạm vào đối phương và phát nổ. Rasen Shuriken sẽ biến thành hàng tỉ những phi tiêu chakra cực nhỏ và hủy diệt đến từng tế bào của đối phương nhưng thuật này cũng mang đến những nguy hại rất lớn cho người sử dụng, điển hình là bàn tay của người đó.

Rasen Shuriken được thực hiện khi Naruto ở trạng thái bình thường hoặc Tiên Nhân (sử dụng Tiên Thuật, sức mạnh tăng gấp bội và có thể ném xa hơn) có thể ném ra và tấn công từ xa được như một cái phi tiêu. Đòn đánh này có tầm đánh và phạm vi sát thương lớn hơn Rasen Shuriken cũ nhiều vì nó có thể tự khuếch đại lên, mức hủy diệt cũng cao hơn và ít gây hại cho người sử dụng hơn. Naruto dùng nó lần đầu là để tấn công Kakuzu, và kết quả là hắn đã gần chết.

Odama Rasengan - 大玉螺旋丸 (Đại Ngọc Loa Toàn Hoàn) Chiêu thức mà Naruto học được khi cùng Jiraiya tập luyện. Odama Rasengan là một quả Rasengan khổng lồ tấn công một sức mạnh hơn Rasengan gấp vạn lần (nhưng chỉ lúc Naruto dùng Tiên nhân thuật mới làm được)

Rasenrengan - 螺旋連丸 (Loa Toàn Liên Hoàn) Chiêu này Naruto có thể dùng hai quả Rasengan cùng một lúc. Sức mạnh của nó gấp đôi Rasengan. Naruto chỉ dùng khi có Tiên thuật.

Bijū Rasengan - 尾獣螺旋丸 (Vĩ Thú Loa Toàn Hoàn) là dạng cấp cao tiếp theo của Rasengan, chỉ Naruto mới dùng được khi hợp nhất bản thân với Cửu Vĩ Kurama.

Wakusei Rasengan - 惑星螺旋丸 (Hoặc Tinh Loa Toàn Hoàn) Naruto chỉ dùng được khi hợp nhất với Cửu Vĩ, Rasengan này có hình dạnh như 1 hành tinh thu nhỏ, anh sử dụng 1 lần duy nhất khi đầu với Tsuchikage Đệ Nhị Mu.

Senpō: Chō Ōdama Rasen Tarengan - 仙法 • 超大玉螺旋丸 (Tiên Pháp: Siêu Đại Ngọc Loa Toàn Đa Liên Hoàn) Naruto tạo nhiều ảnh phân thân khi trong trạng thái Tiên nhân, mỗi ảnh phân thân cầm trên tay 1 Đại Ngọc La Toàn Hoàn sau đó chúng tấn công diện rộng từ trên không, đòn này mạnh đến mức có thể làm choáng cả Cửu Vĩ.

Ảnh Phân Thân Thuật[sửa]

Ảnh Phân Thân Thuật–影分身の術|Kage Bunshin no Jutsu tạo ra những phân thân thật sự, không phải ảo ảnh, với bất kỳ tổn thương hay vũ khí gì người ban đầu có. Chakra của người dùng được chia đều ra mỗi phân thân. Vì vậy, chính thuật này cũng được coi là nguy hiểm; khi tạo ra nhiều phân thân của một người thì chakra người đó có thể tiêu hao rất nhanh. Thuật này còn được coi là nguy hiểm hơn với dạng cấm kị, Đa Trọng Ảnh Phân Thân Thuật–多重影分身の術|Tajū Kage Bunshin no Jutsu. Trong khi thuật Ảnh Phân Thân bình thường tạo ra không nhiều hơn 5 phân thân, phiên bản Đa Trọng cho phép tạo ra số lượng phân thân vô hạn một khi người dùng có đủ chakra. Vì sự nguy hiểm của thuật này nên nó thường chỉ được sử dụng bởi ninja cao cấp, từ Thượng đẳng (Jōnin) trở lên. Tuy nhiên, Uzumaki Naruto đã học thuật này đầu tiên để trở thành ninja, và nhờ lượng chakra dồi dào cậu ta có thể sử dụng nó để tạo ra hàng nghìn phân thân và không lo đến việc hết chakra.

Bất kỳ kinh nghiệm nào ảnh phân thân tiếp nhận khi hiện hữu đều được chuyển về người dùng một khi chúng biến mất (xảy ra khi phân thân tự hành động hay sau khi nó bị tấn công). Điều này khiến cho thuật rất lý tưởng để do thám, vì người dùng có thể đơn giản gửi một phân thân đi tiếp cận mục tiêu và cho phân thân tự biến mất để chuyển thông tin về người dùng. Nó cũng hữu dụng cho việc tập luyện, vì tổng số kinh nghiệm người dùng có được sẽ nhân lên với số phân thân được dùng trong tập luyện.

Trong một cuộc phỏng vấn, Maile Flanagan, nữ diễn viên lồng tiếng cho Naruto trong phim tiếng Anh, khẳng định rằng cảnh phân thân là cảnh cô thích lồng tiếng nhất.[25]

Tả Luân Nhãn (Sharingan)[sửa]

Tả Luân Nhãn đang ở cấp 3

Tả Luân Nhãn–写輪眼|Sharingan là một đồng thuật–瞳術|dōjutsu tự động bộc phát ở một số ít thành viên chọn lọc trong bộ tộc Uchiha. Tả Luân Nhãn được cho là thừa kế từ Luân Hồi Nhãn (Otsutsuki Hagoromo - Rinnegan truyền lại cho con trai ông là Otsutsuki Indra - Sharingan),[26] nhưng cho người dùng những khả năng và nội nhãn khác. Tả Luân Nhãn không tự động xuất hiện từ khi mới sinh; thay vào đó, nó sẽ thường xuất hiện khi người đó ở trong tình huống đe dọa tính mạng, khi đó sức mạnh của Tả Luân Nhãn có thể cứu sống họ. Sau sự xuất hiện đầu tiên, người dùng có thể khai mở Tả Luân Nhãn bất cứ khi nào họ muốn. Sức mạnh của Tả Luân Nhãn được quyết định bằng số ba phẩy (tiếng Nhật: tomoe–巴) trong mắt, với số lượng tối đa là 3 ở mỗi con. Những nhân vật sở hữu Tả Luân Nhãn trong cốt truyện Naruto hiện là Uchiha Sasuke, Uchiha Itachi, Hatake Kakashi, Uchiha Obito và Uchiha Madara, Uchiha Izuna, Otsutsuki Indra, Uchiha Kagami, Uchiha Shisui, Uchiha Sarada, Uchiha Fugaku, Uchiha Izumi, Otsutsuki Hagoromo, Otsutsuki Kaguya.

Khả năng đầu tiên và phổ biến nhất của Tả Luân Nhãn là ghi nhớ bất kỳ thuật gì nó thấy được (ngoại trừ Huyết kế Giới hạn và Huyết kế Chọn lọc). Nó có thể ghi nhớ bất kỳ dạng thuật cơ bản nào với độ chính xác cao, giúp người dùng có thể dùng thuật đó cho riêng mình. Tuy nhiên để có thể tái tạo thuật đã sao chép, người đó cần phải có những kỹ năng và khả năng cần thiết để thực hiện.[27]

Khả năng thứ hai của Tả Luân Nhãn là giúp người dùng có được một thị giác cực kỳ hoàn hảo, khiến họ có thể theo dõi những vật di chuyển nhanh lẹ một cách thoải mái và thậm chí còn dự đoán được chuyển động tiếp theo của vật đó.[28] Một Tả Luân Nhãn khi đã hoàn toàn phát triển có thể theo dõi cả một đối thủ nhanh nhất.[29] Thị lực này cũng tuyệt đến mức nhìn được qua ảo thuật và quan sát được dòng chảy chakra, nhưng không có độ rõ ràng như Bạch Nhãn.[30]

Khả năng thứ ba của Tả Luân Nhãn là một loại thôi miên riêng biệt hoạt động bằng cách nói ra những hành động và ý nghĩ với đối thủ (Ảo thuật - Genjutsu). Khi được sử dụng cùng với những khía cạnh đã đề cập ở trên của Tả Luân Nhãn, nó có thể giúp người dùng bắt chước hoàn hảo mọi chuyển động của kẻ thù, thậm chí trước khi chúng chuyển động, làm cho giống như người dùng có thể thấy tương lai.[31] Nó cũng có thể tạo ra các dạng thôi miên khác, như ru ngủ đối thủ, chạy lại những ký ức với một người nào đó, tạo ra nhiều ảo ảnh để lừa gạt đối thủ, hay thậm chí điều khiển chúng.

Có thể cấy ghép một con mắt Tả Luân Nhãn từ người này sang người khác, như với Kakashi và đồng đội đã chết của anh Uchiha Obito.[32] Dù sao, con mắt được cấy ghép không hoạt động hiệu quả ở trong một cơ thể khác tộc Uchiha; con mắt của Kakashi lúc nào cũng hoạt động, khiến anh trở nên rất căng thẳng khi dùng nó và khiến anh phải hồi sức trong một quãng thời gian dài sau cuộc chiến. Thành viên của tộc Uchiha không phải chịu gánh nặng này; dù việc kích hoạt Tả Luân Nhãn có tiêu tốn chakra, số lượng lại rất nhỏ đến nỗi không đáng kể. Điển hình là Itachi có vẻ như không gặp khó khăn khi gần như liên tục giữ Tả luân Nhãn kích hoạt.

Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn (Mangekyō Sharingan)[sửa]

Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn–万華鏡写輪眼|Mangekyou Sharingan là một dạng cao cấp của Tả Luân Nhãn. Nó được kích hoạt đầu tiên bởi Uchiha Madara,[33] người đã có thể dùng nó để điều khiển Hồ ly chín đuôi. Qua nhiều thế hệ các thành viên Uchiha khác đã có được Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn của riêng mình,[34] dù vậy Uchiha Madara, Uchiha Itachi, Hatake Kakashi, Uchiha Izuna Uchiha Sasuke Uchiha Obito, Uchiha Shisui, Uchiha Fugaku, Uchiha Naomi, Uchiha Baru, Uchiha Naka, Uchiha Rai, Otsutsuki Indra, Otsutsuki Hagoromo, Uchiha Sarada(Sau này) là những nhân vật duy nhất sở hữu nó trong cốt truyện Naruto hiện tại. Không giống Tả Luân Nhãn thông thường, Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn khác nhau ở mỗi người. Những người sở hữu Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn phải chịu một thị lực hư hỏng suốt đời, một quá trình diễn ra nhanh hơn với mỗi một lần sử dụng và cuối cùng là dẫn đến mù mắt.[35] Chỉ có lấy đi con mắt của người cùng ruột thịt mới có thể hồi phục hoàn toàn vĩnh viễn thị lực, và kết hợp hai loại Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn khiến người đó có sức mạnh hoàn hảo.[36] Những chiêu thức mạnh nhất của Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn bao gồm Amaterasu (tạo ra Hắc Hoả thiêu cháy một vật mà không bị dập tắt bởi nước hoặc các thuật Thủy độn thông thường), Tsukuyomi (thi triển ảo thuật của Nguyệt Độc), Kamui (vặn xoắn không gian cho phép hút đối phương vào một chiều không gian khác), Susanoo (tạo ra hình thể giống như bóng ma bao bọc cơ thể để bảo vệ hoặc tấn công)...

Khi Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn được tiết lộ lần đầu, Itachi bảo Sasuke rằng chỉ có được nó khi giết đi người bạn thân nhất.[37] Dù Itachi và nhiều người Uchiha khác đã làm việc này để có được cho riêng mình, ít nhất thì còn một cách khác: sau khi Itachi chết với tư cách là một người cùng Sasuke chia sẻ mối quan hệ thân thiết, Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn của Sasuke được kích hoạt. Vì thế, nếu không phải bằng một trong hai phương pháp trên thì việc Kakashi đã có được Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn là khi cậu giết chết Rin vì Rin bị bắt làm Jinchuriki, lúc đó cậu vô cùng đau khổ và kích hoạt được Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn, nhưng không biết vì sao đến phần 2 cậu mới dùng được.

Nguyệt Độc - 月読 (Tsukuyomi) – Thần Mặt Trăng Được dùng bởi Uchiha Itachi. Tsukuyomi là tên của Thần Mặt Trăng, là loại ảo thuật (genjutsu) dùng dạng Mangekyou của Sharingan để tạo những ảo giác mạnh mẽ nhất. Itachi đã dùng mắt phải của mình để sử dụng thuật này. Ảo thuật cao cấp này rất ít khi Itachi sử dụng bởi vì đặc tính nguy hiểm của nó lên bản thân người dùng. Để sử dụng, người dùng Tsukuyomi nhìn thẳng vào mắt của đối phương và cài đặt ảo thuật lên họ. Người bị rơi vào ảo giác của Tsukuyomi hoàn toàn bị khống chế, không thể vận dụng bất kỳ một chiêu thứ nào để có thể phản công lại. Người điều khiển Tsukuyomi có thể hành hạ đối phương trong ảo giác bao nhiêu lâu tùy thích. Thực tế thì khoảng thời gian bên ngoài chỉ có vài giây, nhưng đối với người rơi vào Tsukuyomi thì có thể là vài ngày đã trôi qua. Đau đớn triền miên không bao giờ chấm dứt và không thể thoát khỏi được ảo thuật của Tsukuyomi. Là một người bình thường thì không thể thoát khỏi Tsukuyomi, nhưng nếu là một người của tộc Uchiha thì sẽ có khả năng thoát khỏi hiệu lực của nó. Với những ai có Mangekyou Sharingan thì khỏi cần nhắc đến, đương nhiên là có thể thoát ra được Tsukuyomi, tuy không dễ dàng nhưng cũng không quá vất vả. Với một đôi mắt Sharingan bình thường khi đã được rèn luyện ở mức độ cao cũng có thể thoát khỏi ảo thuật này bởi vì Tsukuyomi không thể sử dụng ở một thời gian dài vì có ảnh hưởng nguy hiểm đến người dùng.

Tu Tá Năng Hồ - 須佐能乎 (Susano'o乎) – Thần biển cả và bão tố được dùng bởi Otsutsuki Indra, Uchiha Madara, Uchiha Itachi, Uchiha Sasuke, Hatake Kakashi và Uchiha Shisui (Shisui chỉ dùng được Susano'o trong phiên bản game Naruto Storm chứ không hề có trong Manga/Anime). Susano'o là tên của một vị thần cai quản biển cả và bão tố, là một chiêu thức sử dụng dạng Mangekyou của Sharigan tạo nên 1 bóng ma cầm kiếm khổng lồ bao bọc quanh người điều khiển. Để tạo nên chiêu thức này cần sử dụng cả hai mắt, riêng Shisui chỉ cần một mắt để dùng Susano'o trong Naruto Storm, cá biệt Uchiha Madara còn có thể sử dụng Susano'o trong trạng thái mù lòa, không có Sharingan (Anime). Hình thái đầu tiên của Susano'o là một bộ xương khổng lồ được chakra bao bọc,dần dần sau này phát triển thêm sẽ có đầy đủ da thịt và áo giáp (nhưng chỉ có phần thân trên), 2 tay cầm cả khiên lẫn kiếm để vừa tấn công vừa phòng thủ (tùy thuộc Susano'o mà các Susano'o có các loại vũ khí khác nhau), sau khi sở hữu Mangekyo Sharingan Vĩnh cửu thì Susano'o sẽ có cả phần thân dưới. Thanh kiếm của Susano'o do Itachi kêu gọi được tạo ra từ biến thể của rượu sake trong quả bầu nậm bóng ma đang cầm. Đây là một trong những thanh kiếm trong truyền thuyết, kiếm của Totsuka, thanh Sakegari huyền thoại. Bất kỳ ai hay vật gì bị thanh kiếm này đâm vào đều bị phong ấn trong Ảo thuật vĩnh viễn. Người ta nói rằng đây là thanh kiếm duy nhất có thể khắc chế được thanh Kusanagi của Orochimaru. Còn cái khiên được gọi là khiên của Yata, có thể chống đỡ được tất cả bất kỳ đòn tấn công nào. Người sở hữu được thanh kiếm Sakegari và khiên của Yata gần như là bất bại. Tuy nhiên, cũng giống như tất cả mọi đòn tấn công khác của Mangekyou Sharingan, Susano'o có nhược điểm chí mạng là làm cho người điều khiển nó càng ngày càng mất dần đi thị lực. Sasuke có được thuật này khi được Itachi truyền hết nhãn lực. Susano'o của Sasuke khác của Itachi ở chỗ Sasuno'o của Sasuke không sử dụng kiếm và tấm khiên, mà sử dụng cung tên ở cánh tay trái.

Thần uy - 神威 (Kamui) Người sử dụng: Hatake Kakashi và Uchiha Obito. Kamui là nhẫn thuật sử dụng Mangekyou Sharingan vặn xoắn không gian hiện tại rồi tạo ra chiều không gian khác để dịch chuyển đối phương từ không gian này sang không gian khác. Để kích hoạt Kamui, Kakashi phải dùng thủ ấn để chuyển đổi Sharingan cấp 3 của mình sang Mangekyou Sharingan. Sau đó anh chăm chú nhìn vào chỗ đối phương mình khiến cho không gian xung quanh bắt đầu biến đổi và dịch chuyển đối phương sang một không gian khác. Để thực hiện chiêu thức này, Kakashi đã phải cố gắng tính toán chakra nghiêm túc bởi vì lượng chakra mà nó tiêu thụ. Kakashi chỉ có thể sử dụng Kamui hai lần và nếu sử dụng hơn thì sẽ vượt quá tầm kiểm soát, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mạng sống của anh. Sau khi sử dụng xong Kamui, Kakashi không giữ được dạng Mangekyou mà trở lại dạng Sharingan bình thường. Trong khi đó Obito lại sử dụng chiêu này không mấy khó khăn.

Tensha Fuuin - Amaterasu - 天車封印 • 天照 (Thiên xa phong ấn - Thiên Chiếu):

Người sử dụng: Uchiha Itachi, Uchiha Sasuke. Tensha Fuuin - Amaterasu là một thuật phong ấn được sử dụng bởi Itachi. Để bảo vệ em trai khỏi sự tiếp xúc của Madara (thực chất là Uchiha Obito), Itachi đã cài đặt Amaterasu vào mắt trái của Sasuke. Khi nhìn thấy Sharingan của Obito, mắt Sasuke sẽ chảy máu và biến đổi thành dạng Mangekyou Sharingan của Itachi, đồng thời cũng phóng ra Amaterasu đốt cháy Obito. Ngọn lửa của thuật này có màu đen và không thể dập tắt trừ phi người (hay vật) dính thuật cháy thành tro hay người có Mangekyou Sharingan khống chế. Sau khi dùng thuật này, người sử dụng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng (thị lực yếu đi, chảy máu mắt...).

伊弉諾 - Izanagi Người sử dụng: Shimura Danzou, Uchiha Madara, Uchiha Obito, Uchiha Naka. Chiêu thức này có thể vô hiệu hóa mọi đòn tấn công của đối thủ, tựa như một giấc mơ. Là thuật có thể hòa lẫn giữa ảo ảnh và hiện thực, Danzo sử dụng thuật thông qua những con mắt Sharingan trên cánh tay và hết tác dụng khi tất cả các con mắt đều nhắm lại. Đây là một loại cấm thuật mà cả những người trong dòng tộc Uchiha cũng không được phép sử dụng. Người có thể sử dụng thuật này phải có được sức mạnh của cả hai tộc Uchiha và Senju và cái giá phải trả là vĩnh viễn mất đi ánh sáng.

伊弉冉 - Izanami Người sử dụng: Uchiha Naori, Uchiha Itachi. Là nhẫn thuật hoạt động dựa trên ý thức của người điểu khiển và kẻ địch. Nó được tạo ra để cứu những người sử dụng Izanagi, đó là một vòng tuần hoàn của một sự việc.

別天神 (Koto amatsukami) - Biệt Thiên Thần

Người sử dụng: Uchiha Shisui, Shimura Danzo. Kotoamatsukami điều khiển tâm trí của người khác, khiến người đó thậm chí không thể nhận ra họ đang bị điều khiển. Chính ảo thuật này đã đem lại cho Shisui khả năng khống chế rất lớn đồng thời cũng khiến những kẻ khác thèm muốn giành giật sức mạnh này, điển hình là Danzo.

Kiếm thuật[sửa]

Là kĩ năng sử dụng kiếm của một ninja. Các ninja của làng Sương Mù và Làng Mây thường rất giỏi kiếm thuật. Những nhân vật sử dụng kiếm thuật giỏi nhất trong bộ truyện Naruto là Hokage Đệ Nhị Tobirama Senju, Tokubetsu Jonin Hayate Gekko và thành viên ANBU Uzuki Yugao. Hokage đệ nhị đã kết hợp nhẫn thuật Phi Lôi Thần (Hiraishin no Jutsu) và kiếm thuật thượng thừa của mình để tạo nên chiêu thức Phi Lôi Thần Trảm (Hiraishingiri). Hayate Gekkou đã thành thục kiếm thuật Mộc Diệp Lưu: Tam Nhật Nguyệt chi Vũ (Konoha Ryuu: Mikazuki no Mai).

Thuật Triệu Hồi[sửa]

Vật triệu tập thường được gọi ra trong một đống khói với Khẩu Ký chi Thuật–口寄せの術|Kuchiyose no Jutsu. Trước khi có thể triệu tập, người dùng ký một bản giao kèo bằng chính máu của mình, mỗi giao kèo khác nhau dựa theo con vật được triệu tập. Một khi đã xong, người triệu tập chỉ cần thực hiện chính xác thủ ấn và cho thêm một chút máu từ cùng bàn tay mà họ dùng để ký giao kèo. Lượng chakra cần thiết lúc này cân xứng với kích cỡ của con vật được triệu tập. Vật triệu tập có những chiêu thức mà chúng tự sử dụng hoặc dùng kết hợp với người triệu tập. Vài vật triệu tập còn mạnh đến mức thách thức người triệu tập, hay sẽ yêu cầu thứ gì đó để tham gia trận chiến.[38]

Trong vài trường hợp, có thể gọi ra những vật thể bất động, như Orochimaru[39]Sakon và Ukon[40] làm với cổng La Sinh Môn (羅生門|Rashōmon) và Tenten với vũ khí đặc biệt. Cũng như với vật triệu tập sống, vật triệu tập bất động cần máu của chính người triệu hồi.[41]

Thuật Khối Lũy (Rối)[sửa]

Công dụng và cách điều khiển rối[sửa]

Rối được ninja sử dụng để hỗ trợ người dùng về phòng thủ và tấn công. Người điều khiển tuôn chakra từ những ngón tay để điều khiển các bộ phận của con rối. Những bậc thầy như bà Chiyo có thể dùng 1 ngón tay để điều khiển cả một con rối.

Chế tạo rối[sửa]

Chỉ có mình Sasori biết chế tạo ra những con rối là lấy xác người đã khuất hoặc bỏ mạng dưới tay hắn, bỏ hết nội tạng, xử lý chống thối rữa... Hắn đã lấy xác của nhiều người để làm rối. Đối với Sasori nó giống như nghệ thuật sưu tập. Hai con rối hắn tạo ra đầu tiên chính là cha và mẹ (do cha mẹ hắn đã mất, hắn cô đơn và muốn nhớ lại cha mẹ mình). Con rối của Kankuro cũng do hắn làm ra nhưng hoàn toàn không lấy thân thể người chết. Con rối mà hắn thấy ưng ý nhất chính là Kazekage Đệ Tam của Làng Cát. Cách này gọi là Nhân Mộc Hợp. Còn bình thường, rối được làm bằng gỗ, bên trong rỗng và chứa ám khí. Đặc biệt, Kuroari (Kiến đen) của Kankuro còn có khả năng nhốt đối phương trong cơ thể để Karasu (Quạ) tự tách cơ thể ra tiêu diệt kẻ thù.

Thuật rối - Điều ngoại lệ[sửa]

Trong cuộc giao đấu với Sasori, bà Chiyo đã điều khiển yểm trợ Sakura để chiến đấu, điều đó chứng tỏ rằng không nhất thiết người điều khiển rối chỉ có thể sai khiến thuật này trên hình nhân, vẫn có thể áp dụng trên cơ thể người sống.

Sasori đã tự biến mình thành con rối có ý thức, được trang bị đầy đủ vũ khí trong một không gian cân đối.

Những người điều khiển rối[sửa]

Gồm có:

  • Bà Chiyo (được gọi là huyền thoại vì kĩ thuật điều khiển rối bậc nhất có thể điều khiển 10 con rối với 10 ngón tay)
  • Sasori
  • Kankuro

Tên các thuật được dịch sát nghĩa[sửa]

  • Bạch Nhãn: Mắt trắng
  • Loa Toàn Hoàn (Rasengan): Quả cầu tròn xoáy
  • Thiên Điểu (Chidori): Ngàn con ác điểu
  • Nhu Quyền: Loại quyền không chú trọng sự mạnh bạo, mà chú trọng vào sự tinh tế và chính xác của đòn đánh, thường nhắm vào các huyệt đạo chakra trên cơ thể đối phương
  • Chú ấn: Dấu ấn kiểm soát
  • Khôi Lỗi Chi Thuật: Kỹ thuật rối
  • Loa Toàn Hoàn: Quả cầu xoáy trôn ốc
  • Ảnh Phân Thân Chi Thuật: Kỹ thuật hình bóng phân thân
  • Tả Luân Nhãn: Mắt có hoa văn xoay theo chiều kim đồng hồ
  • Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn: Mắt luân hồi kính vạn hoa
  • Khẩu Ký Chi Thuật: Kỹ thuật triệu tập

Chú thích[sửa]

  1. 1,0 1,1 1,2 1,3 1,4 Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  2. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  3. 3,0 3,1 3,2 3,3 3,4 Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  4. 4,0 4,1 4,2 4,3 Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “jutsu” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  5. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  6. 6,0 6,1 Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  7. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  8. 8,0 8,1 8,2 8,3 Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  9. Naruto volume 41, manga chapter 375, page 11
  10. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  11. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  12. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  13. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  14. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  15. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  16. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  17. 17,0 17,1 Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  18. 18,0 18,1 Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  19. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  20. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  21. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  22. 22,0 22,1 Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  23. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  24. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  25. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  26. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  27. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  28. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  29. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  30. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  31. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  32. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  33. Manga Naruto, chương 385, trang 5
  34. Manga Naruto, chương 386, trang 13
  35. Manga Naruto, chương 386, trang 7
  36. Manga Naruto, chương 386, trang 8-9
  37. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  38. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  39. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  40. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.
  41. Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Citation/CS1”.

Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Navbar' not found.

en:Jutsu (Naruto) fr:Ninjas et ninjutsu dans Naruto it:Jutsu (Naruto) hu:Dzsucu


This article "Thuật (Naruto)" is from Wikipedia. The list of its authors can be seen in its historical and/or the page Edithistory:Thuật (Naruto). Articles copied from Draft Namespace on Wikipedia could be seen on the Draft Namespace of Wikipedia and not main one.



Read or create/edit this page in another language[sửa]