You can edit almost every page by Creating an account. Otherwise, see the FAQ.

Trận Bardia

Từ EverybodyWiki Bios & Wiki

Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Message box/configuration' not found.

Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “Unsubst”.


Lỗi kịch bản: Không tìm thấy mô đun “ParameterAliasNormalizer”. Trận Bardia diễn ra từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 1 năm 1941, là một phần của Chiến dịch Compass, chiến dịch quân sự đầu tiên của người Anh trong Chiến dịch Sa mạc Tây trong Thế chiến 2. Đây là trân đánh đầu tiên mà quân đội Úc tham gia, được chỉ huy bởi một viên tướng người Úc và được lên kế hoạch bởi một viên sĩ quan Úc. Sư đoàn 6 Úc (Thiếu tướng Iven Mackay) đã tấn công pháo đài Bardia, Libya của Ý, với sự hỗ trợ từ không quân, hải quân và hỏa lực từ một đợt pháo. Lữ đoàn Bộ binh 16 Úc tấn công vào lúc bình minh từ phía tây, nơi hệ thống phòng thủ được cho là yếu. Công binh đã tiến hành tạo những khoảng trống vừa đủ trên hàng rào dây thép gai bằng ngư lôi Bangalore và phá vỡ mặt bên của hào chống tăng bằng cuốcxẻng. Điều này cho phép bộ binh và 23 xe tăng Matilda II của Trung đoàn Xe tăng Hoàng gia 7 tiến vào pháo đài và bắt giữ tất cả các mục tiêu của họ, cùng với 8,000 người bị bắt làm tù binh.

Trong giai đoạn thứ hai của chiến dịch, Lữ đoàn Bộ binh 17 Úc đã khai thác cuộc xâm phạm được thực hiện ở vành đai và ép về phía nam đến tận một tuyến phòng thủ được gọi là Phòng tuyến Switch. Vào ngày thứ 2, Lữ đoàn Bộ binh 16 Úc đã chiếm được thị trấn Bardia, chia cắt pháo đài ra làm hai. Hàng ngàn người khác bị bắt làm tù binh và quân đồn trú Ý hiện chỉ được tổ chức ở phần cực bắc và cực nam của pháo đài. Vào ngày thứ ba, Lữ đoàn Bộ binh 19 Úc tiến về phía nam từ Bardia, được hỗ trợ bởi pháo binh và 6 xe tăng Matilda còn hoạt động. Cuộc tiến công này cho phép Lữ đoàn Bộ binh 17 Úc đạt được tiến bộ và hai lữ đoàn đã thu hẹp lại khu vực phía nam của pháo đài. Các đơn vị đồn trú của Ý ở phía bắc đã đầu hàng trước Lữ đoàn Bộ binh 16 Úc và Cụm Hỗ trợ của Sư đoàn Thiết giáp 7 bên ngoài pháo đài. Tổng cộng khoảng 36,000 quân Ý bị bắt làm tù binh.

Chiến thắng tại Bardia cho phép các lực lượng Đồng minh tiếp tục tiến vào Libya và chiếm giữ gần như toàn bộ Cyrenaica, dẫn đến Chiến dịch Sonnenblume, sự can thiệp của người Đức vào cuộc chiến ở Bắc Phi, làm thay đổi bản chất của cuộc chiến tại chiến trường.

Bối cảnh[sửa]

Ý xâm lược Ai Cập[sửa]

Bài chi tiết: Ý xâm lược Ai Cập

Ý chính thức tuyên chiến với Anh vào ngày 10 tháng 6 năm 1940. Gíap với Libya thuộc địa của Ý là Vương quốc Ai Cập. Mặc dù là quốc gia trung lập, Ai Cập bị người Anh chiếm đóng theo các điều khoản của Hiệp ước Anh - Ai Cập năm 1936, cho phép các lực lượng quân sự Anh chiếm đóng Ai Cập trong trường hợp Kênh đào Suez bị đe doạ. Một loạt các cuộc đột kích xuyên biên giới và các cuộc giao tranh bắt đầu diễn ra ở biên giới giữa Ai Cập và Libya. Vào ngày 13 tháng 9 năm 1940, quân Ý vượt qua biên giới tiến vào Ai Cập, và đến Sidi Barrani vào ngày 16 tháng 9, nơi cuộc tiến công đã bị dừng lại cho đến khi những khó khăn về hậu cần được khắc phục.

Ý nằm ở vị trí trung tâm Địa Trung Hải khiến cho việc tiếp tế bằng đường biển là vô cùng nguy hiểm, vì vậy việc tiếp tế và đưa quân tiếp viện sang Ai Cập phải đi qua mũi Hảo Vọng. Vì lý do này, sẽ thuận tiện hơn khi Bộ Tư lệnh Trung Đông của Tướng Archibald Wavell được củng cố với việc quân Anh được bổ sung từ Úc, New Zealand và Ấn Độ. Tuy nhiên, ngay cả khi nước Anh có nguy cơ bị xâm lược bởi Đức sau khi nước Pháp thất thủ và cần tái trang bị lại một cách cần thiết cho Lực lượng Viễn chinh Anh bị tổn thất sau cuộc di tản Dunkirk, quân lực và vật tư vẫn được chuyển đến cho Bộ Tư lệnh Trung Đông. Một đoàn xe vận tải rời khỏi Vương quốc Anh vào tháng 8 năm 1940 mang theo vũ khí, kho dự trữ và đạn dược cùng với ba trung đoàn thiết giáp, bao gồm Trung đoàn Xe tăng Hoàng gia 7, được trang bị Xe tăng Matilda II.

Vào ngày 9 tháng 12 năm 1940, Lực lượng Sa mạc Tây dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Richard O'Connor đã tấn công vào các vị trí đóng quân của Ý tại Sidi Barrani. Quân Anh đánh chiếm được Sidi Barrani và bắt sống 38,000 quân Ý làm tù binh, và phần còn lại của quân Ý bị đẩy lùi. Lực lượng Sa mạc Tây tiến vào Libya để truy kích quân Ý đang rút chạy, và Sư đoàn Thiết giáp 7 được thành lập ở phía Tây Bardia, cắt đứt con đường liên lạc giữa quân Ý với Tobruk. Vào ngày 11 tháng 12, Wavell quyết định rút Sư đoàn 4 Ấn Độ và phái sang Sudan để tham gia Chiến dịch Đông Phi. Sư đoàn 6 Úc (Thiếu tướng Iven Mackay) được đưa từ Ai Cập sang và Mackay nắm quyền chỉ huy tại khu vực này vào ngày 21 tháng 12 năm 1940.

Địa lý[sửa]

Không giống như ở Đại Biển Cát, phần ven bờ của Sa mạc Libya là đá chứ không phải là cát nhưng cũng không kém phần khô cằn với thảm thực vật nghèo nằn. Gần khu vực bờ biển, địa hình ở đây bị phá huỷ bởi những con sông. Các phương tiện quân sự có thể đi qua địa hình này mà không gặp nhiều khó khăn, mặc dù sức nóng, bụi và gió đã gây ra sự xuống cấp nhanh chóng của chúng. Bởi vì khu vực này có rất ít dân cư sinh sống, nên nguy cơ thương vong cao về dân sự do bom, đạn gây ra là không thể. Vào ban đêm, nhiệt độ có thể giảm mạnh nhưng ban ngày trời lại rất nóng khiến cơ thể cảm thấy khó chịu. Khu vực này hầu như không có thức ăn và nguồn nước đồng thời có rất ít nơi trú ẩn để tránh cái nóng vào ban ngày, cái lạnh vào ban đêm hoặc gió. Tuy nhiên, tại nơi này lại không có dịch bệnh.

Kế hoạch và chuẩn bị[sửa]

Ý[sửa]

Sau thảm hoạ tại Sidi Barrani và việc rút khỏi Ai Cập, Quân đoàn XXIII (Trung tướng Annibale Bergonzoli) phải đối mặt với quân đội Anh từ bên trong hệ thống phòng thủ vững chắc ở Bardia. Mussolini đã viết một bức thư cho Bergonzoli rằng, "Tôi đã giao một nhiệm vụ khó khăn cho bạn nhưng nhiệm vụ này phù hợp với lòng can đảm và kinh nghiệm của bạn với tư cách là một cựu binh gan dạ - đó là nhiệm vụ bảo vệ pháo đài Bardia bằng mọi giá. Tôi chắc chắn rằng 'Râu Điện' và những người lính dũng cảm của anh ấy sẽ chiến đấu cho đến người cuối cùng." Bergonzoli trả lời rằng: "Tôi nhận thức được vinh dự và hôm nay tôi đã lặp lại thông điệp của bạn với quân của mình - đơn giản và rõ ràng. Ở Bardia, chúng tôi đã và đang ở đây." Bergonzoli nắm trong tay 45,000 quân chịu trách nhiệm phòng thủ Bardia. Các sư đoàn Ý bảo vệ vành đai Bardia bao gồm tàn dư của bốn sư đoàn. Khu vực phía bắc ("Gerfah") được bảo vệ bởi Sư đoàn 2 CC.NN. "28 Ottobre"; khu vực trung tâm ("Ponticelli") của Sư đoàn 1 CC.NN. "23 Marzo" và một phần Sư đoàn Bộ binh 62 "Marmarica"; và khu vực phía nam ("Mereiga") là của Sư đoàn Bộ binh 63 "Cirene" và phần còn lại của Sư đoàn Bộ binh 62 "Marmarica". Bergonzoli cũng có tàn dư của Sư đoàn Bộ binh 64 "Catanzaro" đã giải tán, khoảng 6,000 lính biên phòng (GaF), ba đại đội Bersaglieri, một phần của Trung đoàn tháo dỡ "Cavalleggeri di Vittorio Emanuele II" và một đại đội súng máy của Sư đoàn Bộ binh 60 "Sabratha".

Các sư đoàn này bảo vệ một chu vi có diện tích 18 dặm (29 km) có hào chống tăng gần như liên tục, hàng rào dây thép gai rộng lớn và một loạt các cứ điểm mạnh. Các cứ điểm này nằm cách nhau 800 yd (730 m). Mỗi người lính đều có hào chống tăng riêng, được che giấu bởi những tấm ván mỏng. Họ được trang bị một hoặc hai Cannone da 47/32 M35 (pháo chống tăng 47 mm) và từ hai đến bốn khẩu súng máy. Vũ khí được bắn từ các hố bê tông được kết nối với nhau bằng hào với một boong ke sâu dưới lòng đất giúp bảo vệ khỏi hoả lực pháo binh. Các chiến hào không có chỗ để bắn và các hố vũ khí không có chỗ để che. Mỗi vị trí bị chiếm bởi một trung đội hoặc đại đội. Hàng bên trong cũng tương tự như vậy, ngoại trừ việc chúng thiếu hào chống tăng. Các trụ cột được đánh số theo thứ tự từ nam ra bắc, với các cột trụ bên ngoài được đánh số lẻ và các cột trụ bên trong được đánh số chẵn. Những con số thực tế đã được người Úc biết đến từ các dấu hiệu trên bản đồ được chụp tại Sidi Barrani và cũng được hiển thị trên chính các bài đăng. Ở góc phía nam có một tuyến phòng thủ thứ ba, được gọi là phòng tuyến Switch. Có 6 bãi mìn phòng thủ và rải mìn ở một số đồn khác. Điểm yếu chiến thuật của hệ thống phòng thủ này là nếu kẻ thù đột phá, các trụ cột có thể được chọn riêng lẻ từ phía trước và phía sau.

Hệ thống phòng thủ này được hỗ trợ bởi một bộ phận pháo binh mạnh gồm 41 pháo phòng không Breda Model 35 20 mm; 85 pháo chống tăng 47 mm; 26 súng trường chống tăng Solothurn S-18/1000; 41 khẩu súng hỗ trợ bộ binh Cannone da 65/17 modello 13 65 mm; 147 pháo dã chiến Cannone da 75/32 modello 37 75 mm và 77 mm; 76 khẩu pháo Skoda 100 mm Model 1916Canon de 105 mle 1913 Schneider 105 mm; và 27 pháo hạng trung 120 mm và Obice da 149/12 modello 14 149 mm. Số lượng lớn các kiểu súng, nhiều trong số đó khá cũ, đã tạo ra những khó khăn với việc cung cấp phụ tùng thay thế. Những khẩu súng cũ thường có nòng súng bị mòn, điều này gây ra vấn đề về độ chính xác. Kho đạn dược cũng tương tự như vậy và có lẽ tới hai phần ba số ngòi nổ đã lỗi thời, dẫn đến số lượng đạn tồi quá nhiều. Ngoài ra còn có một số kiểu súng máy, với 7 loại đạn được sử dụng. Breda 30, súng máy hạng nhẹ chính, có tốc độ bắn thấp và nổi tiếng luôn bị kẹt đạn mỗi khi bắn. Fiat-Revelli Modello 1914 là một khẩu súng máy cồng kềnh và phức tạp, cũng dễ bị kẹt đạn. Một số trong số này đã được xây dựng lại thành Fiat-Revelli Modello 1935s, mặc dù là một cải tiến, nhưng vẫn không đáng tin cậy. Khẩu trung liên chính, Breda M37, mặc dù có những thiếu sót, nhưng điều chính là nó sử dụng dải hộp đạn 20 viên, giúp giảm tốc độ bắn. Sự thiếu hụt nguyên vật liệu, cùng với sự tinh vi của công nghệ ngày càng tăng của vũ khí hiện đại, đã dẫn đến các vấn đề sản xuất làm thất vọng những nỗ lực cung cấp cho quân đội Ý những trang thiết bị tốt nhất hiện có. Kết quả là hoả lực của quân phòng thủ Ý không lớn và không hiệu quả như mong đợi.

Là quân "dự bị di động", có 13 xe tăng hạng trung M13/40 và 115 xe tăng siêu nhẹ L3/35. Những chiếc L3 nói chung là vô giá trị, còn M13/40 là những chiếc xe tăng hạng trung hiệu quả với 4 súng máy và một nòng pháo 47 mm gắn trên tháp pháo cho vũ khí chính của nó "theo nhiều cách tương đương với các phương tiện chiến đấu bọ thép của Anh". Lớp giáp dày 20 mm trên những chiếc M13/40, mặc dù dày hơn nhiều so với xe tăng siêu nhẹ vẫn có thể bị xuyên thủng bởi pháo chống tăng 2 - pounder của Anh và các xe tăng siêu nhẹ không thể sánh được với Matildas của Anh về hoả lực hay giáp. Không có chiếc xe tăng nào tại Bardia được trang bị radio, khiến cho việc phối hợp phản công trở nên khó khăn hơn.

Bergonzoli biết rằng nếu Bardia và Tobruk cầm cự, một cuộc tiến công của người Anh vào Libya cuối cùng phải chùn bước trước những khó khăn về hậu cần trong việc duy trì một lực lượng sa mạc bằng cách sử dụng tiếp tế trên bộ mở rộng. Không biết mình phải cầm cự được bao lâu, Bergonzoli đành phải phân phát lượng đồ ăn và nước uống của mình để tránh bị quân Anh vây hãm. Đói và khát đã ảnh hưởng xấu đến tinh thần binh sĩ Ý vốn đã bị lung lay bởi sự thất bại trước Sidi Barrani. Các điều kiện y tế cũng làm suy yếu tinh thần binh sĩ, đặc biệt là chấy rậnkiết lỵ, kết quả của việc vệ sinh kém.

Đồng minh[sửa]

Sư đoàn 6 Úc được thành lập vào tháng 9 năm 1939 như là một phần của Lực lượng Đế quốc Úc thứ hai. Thủ tướng Robert Menzies đã ra lệnh rằng tất cả bộ chỉ huy trong sư đoàn phải nằm dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan dự bị thay vì các sĩ quan chính ngạch, những người đã công khai chỉ trích các chính sách quốc phòng của các chính trị gia cánh hữu. Những chính sách này có lợi cho Hải quân Hoàng gia Úc, vốn nhận được phần lớn chi tiêu quốc phòng trong thời kỳ giữa chiến tranh. Kết quả là khi chiến tranh xảy ra, các Trang thiết bị quân sự từ thời Thế chiến 1 và các nhà máy của nó chỉ có khả năng sản xuất vũ khí nhỏ. May mắn thay, những vũ khí này, súng trường Lee–Enfield và súng máy Vickers, là những vũ khí vững chắc và đáng tin cậy vẫn được phục vụ trong suốt cuộc chiến; họ được tăng cường bởi súng tiểu liên Bren. Hầu hết các trang thiết bị khác đã lỗi thời và sẽ phải được thay thế nhưng các nhà máy mới được yêu cầu sản xuất các mặt hàng mới nhất, chẳng hạn như súng cối 3 inch, pháo dã chiến 25 pountder và xe cơ giới; Nội các chiến tranh phê duyệt cho việc xây dựng của họ đã chậm trong thời gian tới. Việc huấn luyện Sư đoàn 6 Úc ở Palestine, mặc dù "mạnh mẽ" và "thực tế", do đó đã bị cản trở bởi tình trạng thiếu hụt trang thiết bị. Những thiếu hụt này dần được khắc phục bằng cách giao hàng từ các nguồn của Anh. Tương tự, Phi đội 3 RAAF được gửi đến Trung Đông mà không có máy bay hoặc trang thiết bị và được cung cấp bởi Không quân Hoàng gia, với chi phí của các phi đội của riêng mình.

Bất chấp sự cạnh tranh giữa các sĩ quan chính quy và dự bị, các nhân viên Sư đoàn 6 Úc là đơn vị có tổ chức hiệu quả. Chuẩn tướng John Harding, tham mưu trưởng Quân đoàn XIII, khi Lực lượng Sa mạc Tây được đổi tên vào ngày 1 tháng 1 năm 1941, từng là sinh viên của Trường Cao đẳng Tham mưu, Camberley cùng với Tham mưu trưởng của Mackay, Đại tá Frank Berryman, vào thời điểm O'Connor từng là giảng viên ở đó. Harding sau đó coi các nhân viên Sư đoàn 6 Úc là "giỏi như bất kỳ nhân viên nào mà tôi đã gặp trong cuộc chiến đó và hiệu quả cao." Học thuyết của Úc nhấn mạnh tầm quan trọng sáng kiến của các nhà lãnh đạo cấp dưới và các đơn vị nhỏ được huấn luyện tuần tra tích cực, đặc biệt là vào ban đêm.

Khi đơn vị này di chuyển xung quanh Bardia vào tháng 12 năm 1940, Sư đoàn 6 Úc vẫn đang gặp phải tình trạng thiếu hụt. Nó chỉ có hai trong số ba trung đoàn pháo binh của mình và chỉ có Trung đoàn Dã chiến 2/1 được trang bị 25 pounder mới, mà đơn vị này chỉ nhận được trong tháng đó. Trung đoàn Dã chiến 2/2 vẫn được trang bị 12 khẩu pháo 18 pounder và 12 khẩu pháo hạng trung 4,5 inch.

Trận chiến[sửa]

Các hoạt động trên không và trên biển[sửa]

Đột nhập[sửa]

Theo dõi[sửa]

Bardia thất thủ[sửa]

Cuộc di chuyển cuối cùng[sửa]

Kết quả[sửa]

Phân tích[sửa]

Thương vong[sửa]

Các sự kiện tiếp theo[sửa]

Tham khảo[sửa]

Lỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Mô đun:Message box/configuration' not found.


This article "Trận Bardia" is from Wikipedia. The list of its authors can be seen in its historical and/or the page Edithistory:Trận Bardia. Articles copied from Draft Namespace on Wikipedia could be seen on the Draft Namespace of Wikipedia and not main one.



Read or create/edit this page in another language[sửa]